Monday, February 29, 2016

Cuộc đời "Nữ hoàng ma túy" khét tiếng thế giới

Griselda Blanco, một phụ nữ từng lấy chồng 3 lần, là trùm ma túy khét tiếng với hàng loạt hoạt động thanh toán băng nhóm và buôn bán ma túy lớn nhất nước Mỹ.
Cuộc sống tại Medellin
 
Griselda Blanco sinh năm 1943 tại Cartagena, Colombia. Năm 3 tuổi, cô ta và bà mẹ An Lucia Restrepo chuyển đến Medellin để sinh sống. Medellin là một trong những “thiên đường” ma túy và gái mại dâm ở Colombia.
 
Tuổi thơ của Griselda gắn liền với các hoạt động phạm pháp. Năm 11 tuổi, Griselda bị buộc tội bắt cóc và giết một đứa trẻ ở gần nơi cô ta sinh sống. Năm 13 tuổi, cô ta trở thành một kẻ móc túi chuyên nghiệp. Năm 14 tuổi, Griselda bỏ nhà và kết hôn với Carlos Trujillo, một thợ rèn. Trong những năm sinh sống với Trujillo, cô ta sinh 3 người con trai. Cũng trong thời gian ấy, Blanco tham gia Medellin, tổ chức buôn bán ma túy lớn nhất Colombia. Sau đó, Trujillo chết vì xơ gan. Nhiều người cho rằng cái chết của ông liên quan đến Blanco. Không lâu sau khi chồng chết, Blanco nhanh chóng kết hôn với Alberto Bravo, một tên buôn bán ma túy ở Medellin.
 
Mối lương duyên giữa Griselda với tổ chức cũng sớm chấm dứt. Trước đó, trong một vụ làm ăn với Ochoa, cháu gái của gia đình Medellin, cô ta sai thuộc hạ giết Ochoa vì không muốn thanh toán tiền chuyến hàng ma túy cho Ochoa.
 
Các hoạt động phạm pháp
 
Giữa năm 1970, Griselda và tên chồng Alberto Bravo chuyển đến New York, Mỹ. Tại đây, ả thiết lập một đường dây buôn bán ma túy lớn nhất nước Mỹ. Băng đảng của ả hoạt động rộng khắp nước Mỹ vào những năm 1970 và 1980, mỗi ngày ả thu về khoảng 8 triệu USD từ hoạt động “kinh doanh” ma túy.
 
Tại Mỹ, ả chủ động kết thân những nhân vật chủ chốt trong mạng lưới tội phạm và những kẻ đứng đầu các băng nhóm xã hội đen ở đây. Cuối năm 1970, quan hệ của Griselda và các băng nhóm tại Miami trở nên căng thẳng. Các băng nhóm muốn tranh giành địa bàn hoạt động với ả.
 
German Jimenez là kẻ cầm đầu một băng nhóm buôn bán ma túy có tiếng tại Miami. Một ngày, German và vệ sỹ của hắn bước vào quán rượu tại Miami một sát thủ đi xe mô tô xuất hiện. Sát thủ bắn chết German. Theo vài nguồn tin, Griselda sát hại German vì hắn "chơi xấu" ả trong vụ tranh giành quyền lực tại Miami.
 
Vụ việc trở nên nổi tiếng trong giới xã hội đen ở Miami, giúp ả củng cố địa vị và tiếng nói. Blanco thâu tóm hết địa bàn kinh doanh ma túy tại đây. Ả trở nên nổi tiếng trong giới buôn bán ma túy khi sử dụng phương thức ám sát bằng xe mô tô. Giới xã hội đen gọi đó là “cuộc chiến ma túy Miami” và gọi ả là “Mẹ già”.
 
Mâu thuẫn giữa Griselda và người chồng phát sinh do vấn đề tài chính. Sau một cuộc ẩu đả tại Bogota, người ta phát hiện xác của Bravo trong bãi để xe ở một hộp đêm với 3 viên đạn trên thi thể. Giới xã hội đen cho rằng "mẹ già" giết chồng.
 
Một năm sau, Griselda kết hôn với Daio Sepulveda, trùm ma túy nổi tiếng ở Mỹ. Họ có với nhau một người con trai. Cuộc hôn nhân nhanh chóng tan vỡ sau nhiều mâu thuẫn. Blanco đưa con trai về Medellin và cấm Daio Sepulveda thăm con trai. Trong một lần, Sepulveda đến thăm con trai, các tay súng cải trang thành cảnh sát bắn chết ông ta. Cơ quan chức năng nói Sepulveda chết do các băng nhóm xã hội đen thanh toán lẫn nhau, nhưng thực chất vụ việc này do Griselda “sắp xếp”.
 
Cảnh sát chưa bao giờ buộc Griselda tội giết chồng. Sau những câu chuyện xảy ra, giới xã hội đen gọi ả là “Góa phụ đen”.
 
Viễn cảnh một cuộc chiến tranh giành quyền lực của bà trùm lớn hơn, phá vỡ thế giới ngầm của Mỹ khiến nhiều nhân vật có tiếng lo lắng. Griselda tìm mọi cách để mở rộng địa bàn hoạt động của nhóm và củng cố đế chế của ả bằng chiến lược mới.
 
"Góa phụ đen" khuếch trương thanh thế bên ngoài những địa bàn của băng nhóm khác và chiêu mộ được nhiều "nhân tài". Jorge Ayala, một đệ tử thân tín của Griselda, tở thành sát thủ có máu mặt trong giới xã hội đen. Dưới sự chỉ đạo của Blanco, Jorge Ayala cùng đám đệ tử tiến hành cuộc chiến tranh giành địa bàn, các cuộc thanh toán các băng nhóm xã hội ở Mỹ. Cơ quan điều tra của lực lượng phòng chống ma túy cho biết, Jorge Ayala sát hại hơn 40 người theo lệnh của Griselda, nhưng sát thủ Jorge chỉ khai y giết 29 người.
 
Sau các cuộc thanh toán các băng nhóm, Blanco nắm giữ phần lớn thị phần phân phối ma túy trên toàn nước Mỹ. Các băng nhóm xã hội đen ở Mỹ đều nể sợ "mẹ già". Ả sẵn sàng sát hại những kẻ tranh giành địa bàn, những kẻ nợ tiền hàng, thậm chí chỉ vì không thích nghe câu từ chối. Jesus Castro một trong những đối tác làm ăn của Griselda, song chỉ vì một lần từ chối việc cho con trai ả ẩn náu khi cơ quan chức năng truy đuổi nên tìm cách sát hại Castro. Một lần, Jesus Castro lái xe dọc đường phố Miami cùng con trai Johnny 2 tuổi, Jorge Ayala đi xe mô tô chặn đầu xe của Castro, dùng súng bắn hai viên đạn vào mặt cậu bé Johnny khiến cậu bé chết tại chỗ. Ayala về báo cáo với "mẹ già" rằng y không giết được Castro. Sau đó, Griselda cho rằng việc giết con trai của Castro còn khiến hắn đau khổ hơn là chết.
 
Bốn tháng sau khi sát hại cậu bé Johnny, bà trùm cử Ayala cùng tay chân đi "xử" gia đình nhà Alfredo Lorenzo do nợ tiền "hàng" không trả. Ayala cùng tay chân sát hại vợ chồng Lorenzo tại nhà riêng.
 
Những năm 70, 80 tại Mỹ, thị trường ma túy tràn ngập ma túy có nguồn gốc từ Colombia, được phân phối bởi “mẹ già”. Ả là người đầu tiên vận chuyển ma túy từ Colombia vào khắp nước Mỹ trước khi Pablo Escobar, trùm ma túy nổi tiếng nhất thế giới, xuất hiện.
 
Năm 1975, lực lượng phòng chống ma túy (DEA) bắt giữ một lô hàng 150 kg cocain của Blanco. Qua quá trình điều tra, cơ quan chức năng truy tố Griselda Blanco và 30 đối tượng khác về tội buôn bán ma túy. Đây là cuộc điều tra nổi tiếng nước Mỹ với số lượng lớn cocain mà cảnh sát tịch thu lúc bấy giờ. Sau đó Blanco trốn về Colombia. Một thời gian ngắn sau, ả quay lại Mỹ để tiếp tục các hoạt động phi pháp.
 
Từ những năm đầu 1970 đến 1980, lực lượng phòng chống ma túy (DEA) nhiều lần đột kích các cuộc vận chuyển, vây bắt Blanco nhưng đều thất bại.
 
Năm 1980, Blanco quay trở lại sinh sống ở Miami. Lúc này, bà trùm buôn bán ma túy khét tiếng đã trở thành triệu phú. Ả mang biệt danh “Nữ hoàng ma túy". Năm 1984, “nữ hoàng” chuyển đến California để trốn các cuộc ám sát.
 
Quá trình bắt giữ 
 
Tháng 2 năm 1985, lực lượng phòng chống ma túy của Mỹ bắt "mẹ già" tại nhà ở Irvine, California. Công tố viên có đủ bằng chứng để chứng minh, buộc tội Griselda Blanco với tội danh giết ba người là cậu bé Johnny, vợ chồng Alfredo Lorenzo và buôn bán ma túy. “Nữ hoàng ma túy" lĩnh mức án 20 năm tù. Mặc dù đang thụ lý án trong tù, "Góa phụ áo đen" vẫn tiếp tục điều khiển các hoạt động kinh doanh ma túy trong đường dây.
 
Ông Diaz, một nhân viên của lực lượng phòng chống ma túy Mỹ cho biết, ông  theo dõi “mẹ già” Blanco từ năm 1973 đến khi ả sa lưới. Năm 1973, ông và đồng đội bắt ả ở New York nhưng lại để ả trốn thoát. Từ đó hoạt động của Blanco trở nên tinh vi và bí ẩn hơn. Ả thường xuyên sử dụng giấy tờ giả, thay đổi chỗ ở thường xuyên.
 
Ông Diaz cũng cho biết, cảnh sát nghi Griselda là chủ mưu của hơn 200 vụ giết người thanh toán giữa các băng nhóm, nhưng các công tố viên không đủ bằng chứng để kết tội ả.
 
Mất mạng vì sát thủ
 
Năm 2004, sau khi thụ án xong, "nữ hoàng ma túy" ra tù và bị trục xuất về Colombia.
 
Ngày 3/9/2012, hai tay súng đi xe máy bắn chết Griselda Blanco ở một cửa hàng thịt tại Medellin, Colombia. Cơ quan chức năng cho biết, đây là cuộc thanh toán của các băng nhóm ma túy.
 
Cựu thám tử Nelson Andrew, Miami, bang Floria, Mỹ nói: “Thật ngạc nhiên khi nữ trùm này không chết sớm hơn bởi vì bà ta có rất nhiều kẻ thù”.
 
“Nữ hoàng ma túy" này là một trong 10 tên tội phạm giàu nhất trong lịch sử thế giới, với tài sản lên tới 620 triệu USD.

Thursday, February 18, 2016

Thiếu nữ 14 tuổi người Yazidi đã trải qua những thời khắc khó khăn nhất trong cuộc đời khi bị nhóm Nhà nước Hồi giáo (IS) bắt cóc, đánh đập, bỏ đói, và bị ép làm vợ lẽ một chiến binh.

Tờ Washington Post mới đây đăng tải câu chuyện của  thiếu nữ 14 tuổi người Yazidi, một tôn giáo thiểu số tại Iraq, bị IS bắt cóc trên đường đến nơi tị nạn cùng gia đình. Thiếu nữ đã kể lại hành trình trốn thoát nhóm cực đoan của mình cho Mohammed A. Salih, phóng viên người Kurd, đang hoạt động tại miền bắc Iraq. Dưới đây là nội dung lời kể của cô gái.
Sáng ngày 3/8, tôi những tưởng tôi sẽ có một ngày bình yên như bao ngày khác, nhưng người thân báo cho tôi một tin tức đáng sợ, chiến binh IS sắp tấn công vào làng tôi. Nhà chúng tôi nằm ở Tel Uzer, một nơi yên tĩnh trên vùng đồng bằng Nineveh, phía tây Iraq. Mọi người nhanh chóng trốn thoát khỏi làng, chỉ mang theo quần áo và một số vật có giá trị.
Sau một giờ đi bộ về phía bắc, mọi người nghỉ chân để uống nước từ một cái giếng trong ốc đảo giữa sa mạc. Kế hoạch của dân làng là đến núi Sinjar để trú ẩn cùng với hàng nghìn người Yazidi khác, đã chạy trốn sau khi tai tiếng về sự tàn bạo của IS và cách chúng đối xử với những người không theo đạo Hồi lan truyền khắp nơi. IS cải đạo những người theo tôn giáo thiểu số hoặc sát hại họ.
Thiếu nữ 14 tuổi người Yazidi bị nhóm Nhà nước Hồi giáo bắt cóc. Ảnh: Washington Post
Đột nhiên, một vài chiếc xe phóng đến, chúng tôi bị bao vây bởi một nhóm các chiến binh mặc quân phục IS. Một số người hét lên kinh hãi, mọi người đều lo sợ cho tính mạng của mình. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bất lực như vậy trong 14 năm cuộc đời. IS chặn con đường đến nơi trú ẩn của chúng tôi, và không ai có thể làm gì để cứu vãn.
Các chiến binh chia những người bị bắt bắt theo giới tính và độ tuổi. Nhóm một gồm những nam thanh niên khỏe mạnh, nhóm hai gồm các thiếu nữ và phụ nữ trẻ, nhóm cuối cùng gồm những người lớn tuổi. Các chiến binh cướp tiền mặt và đồ trang sức của các cụ già rồi bỏ họ lại ốc đảo. Sau đó chúng đưa các thiếu nữ và phụ nữ lên xe tải, tôi ở trong số này. Khi xe di chuyển, tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Sau này, tôi mới biết rằng IS đã bắn chết các thanh niên, trong đó có người anh trai 19 tuổi của tôi, anh mới lập gia đình chỉ sáu tháng trước.
Chiều hôm đó, IS đưa những người bị bắt đến một ngôi trường trống trong Baaj, thị trấn nhỏ ở Mosul, gần phía tây biên giới Syria. Tôi đã gặp nhiều phụ nữ Yazidi khác. Cha, anh em và chồng của họ cũng bị sát hại. Một lúc sau, các chiến binh xông vào, một kẻ trong số chúng đọc những lời trong tín ngưỡng Hồi giáo, ca ngợi thánh Allah và đấng tiên tri Muhammad. Những chiến binh nói rằng chúng tôi sẽ trở thành người Hồi giáo nếu chịu lặp lại lời của chúng. Nhưng chúng tôi cương quyết từ chối. Bọn chúng tức giận, chửi bới và nhục mạ chúng tôi cùng đức tin của chúng tôi.
Một vài ngày sau, IS giải chúng tôi đến một hội trường lớn, chứa hơn chục phụ nữ Yazidi ở Mosul, nơi IS đặt trụ sở tại Iraq. Một số chiến binh thậm chí chỉ trạc tuổi tôi. Chúng tuyên bố rằng tôi và các phụ nữ khác là những người ngoại đạo và giam giữ chúng tôi tại tòa nhà trong suốt 20 ngày. Những người bị cầm tù phải ngủ trên sàn nhà và chỉ được ăn một lần mỗi ngày. Thỉnh thoảng, một chiến binh sẽ đến yêu cầu chúng tôi cải đạo, nhưng chúng tôi đều từ chối. Là những tín đồ Yazidi, chúng tôi sẽ không bao giờ từ bỏ tôn giáo của mình. Mọi người đã than khóc rất nhiều cho sự mất mát của cộng đồng mình.
Một ngày nọ, lính gác phân những phụ nữ bị bắt thành nhóm người đã kết hôn và người chưa lập gia đình. IS tặng tôi và người bạn thân từ thời thơ ấu, Shayma, cho hai thành viên của tổ chức, sống tại phía nam, gần Baghdad. Chúng muốn tôi và Shayma làm vợ hoặc vợ lẽ cho chúng. Shayma được tặng cho một giáo sĩ có tên Abu Hussein. Còn tôi được trao cho một người đàn ông to béo, râu rậm, khoảng 50 tuổi. Hắn sử dụng biệt danh là Abu Ahmed, và có vẻ là một thành viên cấp cao trong nhóm. Hai tên này đưa bọn tôi về nhà của chúng ở Fallujah. Trên đường đi, tôi gặp rất nhiều chiến binh IS và chứng kiến những tàn tích từ các trận chiến của họ.
Abu Ahmed, Abu Hussein và một phụ tá sống trong một ngôi nhà rộng lớn như một cung điện. Abu Ahmed liên tục buộc tôi cải đạo nhưng tôi đều từ chối. Hắn cố gắng hãm hiếp tôi nhiều lần nhưng tôi đã chống trả quyết liệt. Ngày nào hắn cũng nguyền rủa và đánh đập tôi. Hắn cũng chỉ cho tôi ăn một bữa ăn mỗi ngày. Shayma và tôi bắt đầu nghĩ về việc tự tử.
IS đưa điện thoại di động và ra lệnh chúng tôi gọi về cho gia đình. Hành trình của gia đình tôi gặp vô vàn khó khăn. Họ đến được núi Sinjar, nhưng IS lại bao vây và định bỏ đói họ cho đến chết. Sau 5 ngày bị vây giữ, lực lượng cứu hộ người Kurd đến giải cứu và sơ tán họ tới Syria, sau đó đưa họ trở lại miền bắc Iraq. Những kẻ bắt cóc yêu cầu tôi thông báo với gia đình rằng nếu họ đến Mosul và chịu cải đạo sang Hồi giáo, tôi và Shayma sẽ được thả. Gia đình tôi không tin lời IS nên không làm theo.
Và ngày thứ sáu chúng tôi bị giữ ở Fallujah, Abu Ahmed và người phụ tá rời nhà để làm nhiệm vụ tại Mosul. Abu Hussein ở lại để trông chừng chúng tôi. Hoàng hôn ngày hôm sau, hắn đến nhà thờ cầu nguyện và để chúng tôi ở lại nhà. Chớp lấy thời cơ này, chúng tôi liên lạc với Mahmoud, một người Sunni đang sống ở Fallujah, bạn của anh họ Shayma, để xin giúp đỡ. Mahmood sẽ gặp nguy hiểm nếu đến nhà cứu chúng tôi, vì vậy, Shayma và tôi dùng dao làm bếp để phá khóa cửa và thoát ra ngoài. Chúng tôi vận áo dài đen truyền thống và đi bộ 15 phút qua thị trấn. Đường phố yên tĩnh, vắng vẻ do đó là thời gian cầu nguyện buổi tối. Sau đó, Mahmoud đến đón và đưa chúng tôi về nhà anh.
Đêm đó, Mahmoud chuẩn bị đồ ăn và bố trí chỗ ngủ cho chúng tôi. Sáng hôm sau, anh thuê một tài xế taxi đưa chúng tôi đến Baghdad. Người lái xe nói ông rất sợ IS nhưng muốn giúp chúng tôi, như làm một việc thiện. Tôi và Shayma cải trang như những phụ nữ địa phương, che đậy khuôn mặt bằng mạng đen và chỉ để hở đôi mắt. Mahmoud cho chúng tôi thẻ học sinh giả để đề phòng bị kiểm tra ở trạm kiểm soát.
Trong suốt hành trình hai tiếng đồng hồ, tôi chưa bao giờ cảm thấy lo lắng đến như vậy. Tại mỗi điểm kiểm tra, tôi đều nghĩ rằng chúng tôi sẽ bị lộ. Tại một trạm mà tôi không thể nhớ nổi do IS hay lực lượng chính phủ Iraq kiểm soát, Mahmoud đã hối lộ lính gác để cho chúng tôi qua. Khi đến Baghdad, chúng tôi liên lạc với những người Yazidi và Kurd là người quen của gia đình để xin họ giúp đỡ. Tôi không thể diễn tả được cảm giác nhẹ nhõm khi đến nhà họ.
Họ cho chúng tôi một cặp chứng minh thư giả để lên máy bay đến Irbil, thành trì người Kurd ở phía bắc. Tôi vẫn không thể tin rằng chúng tôi được tự do cho đến khi máy bay hạ cánh. Sau khi nghỉ đêm tại nhà của Vian Dakhil, một nghị sĩ người Yazidi, chúng tôi đi về hướng bắc để đến Shekhan, nơi cư trú của Baba Sheikh, lãnh tụ tinh thần của người Yazidi.
Sau khi phải sống trong sợ hãi nhiều ngày, được gặp lại và ôm cha tôi là giây phút tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi. Kể từ khi tôi bị bắt cóc, ngày nào ông cũng khóc thương cho tôi. Tối hôm đó, chúng tôi đến Khanke để gặp mẹ và họ hàng. Chúng tôi ôm nhau và khóc cho đến khi tôi ngất đi. Một tháng chịu đựng gian khổ của tôi đã kết thúc, tôi cảm thấy được tái sinh.
Nhưng đó lại là thời điểm tôi được thông báo rằng anh trai tôi đã bị IS bắn chết ở ốc đảo. Chị dâu tôi, một phụ nữ rất đẹp, vẫn còn bị giam cầm tại một nơi nào đó ở Mosul. Hiện giờ tôi vẫn đang phải cố gắng đối diện với những gì xảy ra. Tôi không còn có thể đặt chân vào ngôi làng cũ được nữa, ngay cả khi IS không còn kiểm soát nó, vì những ký ức về người anh đã mất luôn ám ảnh tôi. Tôi vẫn gặp những cơn ác mộng và ngất đi nhiều lần trong ngày, khi tôi nhớ lại những gì tôi được chứng kiến hoặc tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra nếu Shayma và tôi không trốn thoát.

Monday, February 8, 2016

Mối tình lãng mạn nhất thế kỷ XX


Bỏ qua một bên khía cạnh gia phong và chính trị, cựu hoàng Edward VIII đã chứng tỏ là một người giàu nhân bản; xem thường địa vị xã hội cao quý nhất mà hiếm ai trên đời được thừa hưởng. Ông trọng tình nghĩa hơn tất cả. 
Cali Today News - Trong lịch sử Anh và châu Âu, không ít vua chúa đã cưới người phối ngẫu nước ngoài hoặc thuộc giới bình dân; nhưng lần đầu trong lịch sử nước Anh, một nhà vua đã bỏ ngai vàng để theo nhịp đâp con tim. Đó là trường hợp Edward VIII (23/6/1894-28/5/1972), vua nước Anh, Quốc Trưởng các xứ thuộc địa Tô-cách-lan (Scotland), Ái-nhĩ-lan (Ireland), Canada, Úc, Tân-tây-lan (New Zealand), Toàn Quyền các xứ Thị Trường Chung Anh, Hoàng Đế xứ thuộc địa Ấn Độ; trị vì vỏn vẹn có 326 ngày (20/1/1936-11/12/1936)! Ông có bị áp lực gia đình nhưng áp lực chính trị, xã hội và tôn giáo đã không ảnh hưởng lắm khi ông chọn thoái vị để giữ tình yêu. Nếu thành ngữ Latin có câu “credula res amor est” (yêu là mù quáng) thì dân Ý cũng có thành ngữ “Amor regge senza legge” (trái tim có lý lẽ riêng của nó); và lý lẽ của con tim Edward VIII đã tạo nên một chuyện tình lãng mạn nhất thế kỷ thứ 20 vừa qua!

Edward VIII tên khai sinh “Edward Albert Christian George Andrew Patrick David”; sanh ngày 23/6/1894 tại White Lodge, Richmond Park ở ngoại ô Luân-đôn thời bà nội Victoria đang trị vì. Cha là vua George V và mẹ là Hoàng Hậu Mary gốc Đức. Ông được nhận bí tích rửa tội hôm 16/7/1894 bởi TGM Anh giáo Edward W. Benson tại Green Drawing Room ở White Lodge. Bốn tên chót là tên của các thánh quan thầy bốn xứ Anh, Scotland, Ireland và Wales nhưng thường được gọi là David. Ông là trưởng nam của vua George V râu xồm lỗ mãng cộc cằn; người đã lo ngại về ông con cả phóng túng này đến nỗi phải thốt lên “sau khi tôi chết, thằng bé sẽ tự hủy hoại nó trong vòng 12 tháng!”.

Khi vua cha băng hà, David lên ngôi ngày 20/1/1936; lấy vương hiệu là Edward VIII. Trước khi lên ngôi, ông mang tước hiệu Thái Tử xứ Wales. Ông bỏ học ở Oxford để đi lính khi thế chiến I bắt đầu năm 1914. Ông có tư tưởng chống Cộng Sản nhưng lại tưởng lầm rằng chỉ có chủ nghĩa phát-xít mới đủ sức tiêu diệt bọn Bolshevik tàn ác này. Ông gần gũi giới trung lưu và lao động nên biết thương thần dân hơn. Ông ăn nói bộc trực; chẳng hạn mô tả thổ dân ở Úc là “gần giống loài khỉ” và hay phá cổ lệ triều đình; chẳng hạn lái máy bay đến họp triều chính và sai đúc tiền kim loại có chân dung xoay mặt sang bên trái giống vua cha (theo lệ, chân dung ông trên đồng tiền phải xoay ngược sang phải; khác với vị vua tiền nhiệm) .. vv.. Cũng chính vì hay phá lệ nên ông đã giao du với nhiều đàn bà đã từng lập gia đình như Freda Dudley Ward và Furness, vợ Mỹ của một huân tước Anh, người đã giới thiệu Wallis cho ông; và dĩ nhiên trong đó có bà Wallis Simpson, người đã khiến ông phải đánh đổi ngai vàng để lấy làm vợ!

Bà Bessie Wallis Warfield quê ở Baltimore, Mỹ quốc; đã ly dị với chồng một lần và sẽ ly dị ông chồng thứ hai để lấy vua nước Anh. Hồi nhỏ, vì không thích tên “Bessie”, một tên gọi để chỉ giống bò nên bà chỉ giữ lại tên “Wallis”. Bà bị sanh thiếu tháng (7 thay vì 9 tháng 10 ngày) nên cũng trở nên con người của những bất thường. Một trong những bất thường đó là việc chiếm giữ trái tim ông hoàng khiến thế giới kinh ngạc và theo dõi suốt nhiều thập niên! Bà chẳng có mấy nét khả ái nặng nữ tính. Mũi bà to thù lù; đầu mũi tròn quay (nhưng theo sách tướng Tàu thì “chuẩn đầu phong đại tâm vô độc” nghĩa là tâm không độc địa! Hàm tựa đá mài chạm trổ. Cằm có nốt ruồi to ngay dưới môi. Đôi bàn tay to bản cục mịch với móng nhu nhú khiêm tốn; tất cả đúng như mô tả của một nhà quyền thế Anh thế kỷ trước; là các “móng vuốt nông dân”! Nhưng với kinh nghiệm tình trường trước một gã nai tơ ngơ ngác, bà phải là loại mà J. J. Rousseau gọi là “l’Idéal pot au feu” (bốc lửa). Sách Tàu đã phải kết luận “Nữ nhân nhược thi nam nhân tướng; Dâm loạn phương tâm tất hữu danh”! 

Cecil Beaton, bà con xa của ông chồng thứ hai Ernest Simpson (người nổi tiếng đã thiết kế trang phục đen-trắng cho cảnh Ascot trong bộ phim “My Fair Lady”) đã mô tả bà là “lưng trông thô kệch, cánh tay nặng chịch, nói giọng mũi cao the thé lại khàn đục, ăn nói ồn ào như chợ vỡ, tiếng cười quang quác nghe như két hót”. Thế mà khi bà đã trở thành “Công Nương Windsor”, chính ông ta lại chỉ lôi ra các ưu điểm của bà để “nịnh”! Bà phải xa cuộc hôn nhân đầu với người chồng Earl Windfield Spencer, phi công HQHK; người có tật bạo dâm và uống rượu như hũ chìm. Vì thế bà tìm đến Ernest Aldrich Simpson, một thương gia Mỹ lịch thiệp cưới bà năm 1928 sau khi bà ly dị Spencer.

Lần đầu bà gặp vua Edward VIII ở Leicestershire trong một dạ tiệc hôm 10/1/1931 tổ chức bởi bạn gái cũ của ông tên Thelma Furness. Ông hoàng có vị trí khiến nhiều bà ve vãn nhưng Wallis thì không. Có thể bà đóng kịch chăng? Ông “phải lòng” bà hồi 1934; theo một trang hồi ký của ông có đoạn “nàng bắt đầu có ý nghĩa hơn đối với tôi trong cách nàng có lẽ đã không hiểu thấu đáo được. Cảm tưởng của tôi là một thời gian lâu, nàng vẫn không bị ảnh hưởng bởi sự chú ý của tôi”, “tôi thán phục sự thẳng thắn của nàng. Nếu nàng không đồng quan điểm nào trong thảo luận, nàng không bao giờ thất bại trong việc đưa ra quan điểm riêng của mình một cách mạnh mẽ và hưng phấn”, “phương diện ấy của nàng đã mê hoặc tôi . . . ngay từ đầu, tôi nhìn thẳng vào nàng như một người đàn bà độc lập nhất mà tôi từng gặp”.

Bà “phải lòng” ông trong chuyến du lịch Địa-trung-hải trên chiếc tàu Lord Moyne; thú nhận đã vượt qua “lằn ranh khó tả giữa tình bằng hữu và tình yêu”! Thế rồi chàng đã tặng nàng chiếc nhẫn hột soàn và sự mê hoặc lục ngọc mà nàng đã mở ra cho Ernest. Rồi họ trao đổi ngôn từ riêng tư, viết cho nhau những tình thư màu xanh ký tên một cách chơi chữ là “WE” (Wallis + Edward). Một bạn học thân của ông ở Oxford đã bảo “thật là sai lầm lớn nếu Walter Monckton cho rằng ông ấy (Edward) chỉ yêu bà ấy về phương diện thể chất bình thường. Có một quan hệ trí tuệ và không còn nghi ngờ rằng bản chất cô đơn của ông đã tìm thấy nơi bà một tình ‘đồng chí’ . . . không ai có thể thấu hiểu câu chuyện về đời một ông hoàng, kẻ vốn không đánh giá . . . cường độ và chiều sâu sự cống hiến của ông cho bà Simpson”.

Bà chỉ được thân phụ mẫu của ông tiếp tại Điện Buckingham một lần duy nhất hồi 1935; một cách hết sức lạnh lùng như giá băng! Trong một buổi dạ vũ tốn kém ở cung điện Buckingham năm 1934, bà lẫn lộn trong đám đông khách khứa nổi tiếng và sang trọng; có lúc nhìn qua cửa sổ sang vườn hoa nổi tiếng của Hoàng Hậu Mary –niềm tự hào của Anh quốc thời ấy-, một người hầu trong cung đã nghe loáng thoáng thấy bà Wallis nói “dĩ nhiên, khi tôi đến ở đây thì nó sẽ thành sân tennis tuốt luốt!”. Tiếng dữ đồn xa, đây là kẻ thù đầu tiên trong đám người hầu của Điện Buckingham!

Ông chồng Simpson cố xuất hiện chung với bà vợ càng nhiều càng tốt cho đỡ tự ái nhưng đã không tránh khỏi tan vỡ hôn nhân. Để giữ danh dự một cách hào hiệp cho bà vợ Wallis, họ đã dàn dựng một cảnh trí cổ điển dẫn đến việc qui tội gian dâm, lý do chính để ly dị: Một đàn bà được mướn ở chung phòng khách sạn với ông chồng Ernest và bị bắt quả tang! Để tránh sự tò mò của báo chí, Wallis kiện chồng ra tòa xin ly dị tại thị trấn nhỏ vắng vẻ Ipswich. Nhưng thời ấy, dư luận đều cho rằng bà ly dị để lấy ông hoàng. Điều này khiến Edward bị dồn vào thế bất chính nếu không muốn nói là bất hợp pháp. Bà được cấp giấy li dị hôm 10/1/1936 (theo luật qui định chỉ hiệu lực sau một năm).

Ở thế kỷ 20, triều đình Anh không có quyền chính trị. Nghị Viện Anh và nội các chính phủ nắm quốc sự nhưng hoàng gia có bổn phận phải giữ hòa khí trong thần dân theo truyền thống lâu đời ở xứ này. Nhưng việc hôn nhân của nhà vua lại gây bất hòa khi Thủ Tướng Stanley Baldwin đe dọa từ chức nếu nhà vua cưới Wallis, một đàn bà nước ngoài có hai đời chồng và cả hai còn sống; trái với lệ hoàng gia. Dù không hề có luật lệ thành văn nào cấm một thành viên hoàng gia Anh cưới thường dân, kẻ ly dị hay người nước ngoài; nhưng một luật bất thành văn không cho phép ông hoàng cưới một bà mà hai ông chồng cũ còn sống sờ sờ ra đó! Đứng trước lựa chọn ngai vàng hoặc tình để tránh xáo trộn về tôn giáo, gia phong và nhất là về chính trị, ông hoàng đã chọn thoái vị; điều mà không ai ngờ, kể cả Wallis!

Trong khi chính phủ và hoàng gia không cho ông cưới Wallis khi đang tại vị thì đa số thần dân Anh đều vui lòng khi thấy ông tìm được hạnh phúc riêng chân thật cho mình. Hàng ngàn thư từ và điện tín từ thành phần trung lưu và lao động gởi cho ông để tán thành và chúc mừng. Những “lá phiếu” có tính cách “trưng cầu dân ý” này đã bị chính phủ niêm phong “TỐI MẬT” và chôn giấu trong kho; mãi đến 2003 mới được giải mật! Trong thư từ đó, thần dân Anh phong ông làm “Vua của Nhân Dân” và hoan nghênh cuộc hôn nhân này. Tuy nhiên, nhà vua chắc đã không được đọc vì lệ thường, các vua chúa chẳng trực tiếp bóc thư bao giờ. Thiếu Tá Alexander Hardinge, bí thư của nhà vua, đồng minh của vị Thủ Tướng chống đối đã ém nhẹm chúng. Hardinge đã nói dối nhà vua rằng đại đa số thần dân phản đối cuộc hôn nhân này. Các Thủ Tướng chính phủ các thuộc địa cũng về hùa với CP Anh. Chỉ có Thủ Tướng Ireland gởi công điện lưu ý rằng ở thời đại dân chủ, nhà vua có quyền cưới bất cứ ai mà ông yêu và rằng đây là một chuyện tình đẹp đẽ; nhưng rồi chưa chắc công điện đã tới tay nhà vua; và rồi hai ngày sau cũng đã bỏ phiếu theo các thuộc địa kia.

Căn cứ vào các tin tức mà TT Baldwin cung cấp, nhà vua đưa ra đề nghị dung hòa: Vợ ông không được nhận tước hiệu Hoàng Hậu và con cái ông nếu có, sẽ không nằm trong danh sách kế vị. Thế mà CP Anh vẫn bác bỏ đề nghị này; viện cớ không có tiền lệ trong hoàng gia và luật lệ từ Nghị Viện để dựa theo mà giải quyết; dồn ông vào thế chỉ được chọn hoặc ngai vàng, hoặc người yêu! Nếu nhà vua cương quyết không nhượng bộ thì cũng chẳng ai làm gì được (rex non potest peccare); tựa như Henry VIII chống lại Vatican; cưới 6 bà vợ và lập nên Anh giáo; nhưng sẽ gây bất ổn chính trị ở thời đại này. Trong dân chúng (Nghị Viện) và chính phủ sẽ chia làm hai phe. Vả lại thủ tục biểu quyết một dự luật để thay đổi tình huống sẽ là một tiến trình dài nhiêu khê mà với một Nghị Viện bảo thủ thời ấy, kết quả sẽ rất bi quan!

Thế là chàng và nàng tạm chia tay nhau. Nước mắt tuôn trào, nàng cáo từ về Mỹ. Tại thềm cửa nhà hình vòng cung nơi cung cấm, chàng ôn tồn bảo nàng “Em hãy chờ anh bất kể bao lâu. Anh hứa sẽ không bỏ cuộc!”. Và nàng đã thắng cuộc thay vì chàng! Omnia vincit amor! Nhớ lại thư nàng gởi chàng năm 1936 có đoạn “Em buồn vì vắng anh. Để được gần anh về lâu về dài, có vẻ như là điều bất công nhất sẽ xảy ra . . . có lẽ chúng ta nên ngừng ham muốn điều khó xảy ra nhất và hài lòng với cách đơn giản nhất (vẫn là người yêu thay vì vợ)”. Một tài liệu mật giải mã năm 2000 cho thấy chữ ký của Wallis trước khi chồng thoái vị một hôm 11/12/1936; rằng bà “bỏ rơi bất cứ ý định nào trong việc cưới Đức Vua”. Chữ ký này nằm trong tài liệu thảo sẵn; thúc ép bởi văn phòng thủ tướng. Wallis còn bị nhiều lời đồn đại bất lợi xuất phát từ CP Anh cũng có, từ hoàng gia cũng có mà ngay cả từ FBI của Mỹ vì cả hai ông bà đều có lập trường tuy chống Cộng nhưng thân Phát-xít, một phong trào đang gây chiến tranh. Tin đồn từ Công Tước Carl Alexander de Wurttenber - giáo sĩ một dòng tu ở Mỹ- cho rằng Wallis đã ngủ với đại sứ Đức Ribbentrop và đại sứ Mỹ Joseph Kennedy trong thời gian họ ở London (?!). Riêng Ribbentrop có thời còn gởi tặng bà hoa cẩm chướng mỗi ngày để đếm số lần (17) họ ngủ chung với nhau! Ký giả Mỹ Helen Warden còn viết rằng chân dung ông đại sứ Ribbentrop được bà lộng khuôn để ở đầu giường ngủ ở Bahamas; điều mà ông Công Tước cực lực cải chính! TT Anh Neville Chamberlain viết trong nhật ký về Wallis rằng “bà ta không yêu nhà vua vì tình mà chỉ để lợi dụng cho mục tiêu riêng tư của mình”. Hoàng Hậu Mary, mẹ ông thì nhận xét rằng ông con trai cả của bà đã bị “mẹ mìn” Wallis giáo dục về tình dục theo kiểu cách áp dụng trong các nhà thổ Tàu phù ở HongKong! Vì tình dục không phải là yếu tố chính gắn họ với nhau nên bà còn giao du với một anh Mỹ đồng tính; trẻ hơn bà 20 tuổi tên Jimmy Donohue (gián điệp Mỹ FBI hay M15 của Anh?), người đã cùng du hành với hai vợ chồng như bộ ba nhưng ông không nghi ngờ gì; coi như con trong nhà. Thế mà Donohue lại công khai ca ngợi “tài năng” của bà bồ già (Wallis); khoe rằng “Bà ấy thật hết xẩy! Bà ấy ‘thổi kèn’ giỏi chưa từng thấy!”. Mãi đến thập niên 1950s, quan hệ “thổi kèn” mới chấm dứt; có lẽ thế chiến II đã kết thúc lâu rồi, “cái kèn” không cần bám theo “nhạc công” nữa chăng!! Ngoài Guy Trundle, mật vụ Anh còn khám phá ra ông bồ khác của bà là đại sứ Mỹ Joseph Kennedy (Duke of Leinster, bố TT Mỹ John F. Kennedy) và đã bị bà vợ Rose của ông ta từ chối mời ngồi chung bàn (!?).

Nhiều thập niên sau, bà Wallis, Công Nương Windsor vẫn quả quyết rằng “tôi đã bảo ông rằng tôi không muốn làm Hoàng Hậu . . . tất cả một cách chính thức và trách nhiệm ấy . . . Tôi bảo ông nếu ông giữ được ngai vàng, quan hệ đôi ta vẫn không bị chấm dứt. Tôi vẫn có thể đến thăm ông và ông vẫn có thể đến thăm tôi. Chúng tôi tranh luận gay cấn về việc này nhưng ông là người cứng đầu; ông bảo không muốn làm vua mà thiếu vắng tôi; rằng nếu tôi rời ông, ông sẽ theo tôi đến bất cứ chân trời góc biển nào!”. Thật trái ngược với lịch sử 400 năm về trước khi Anne Boleyn khẳng định với Henry VIII (cha đẻ ra ông nội của Edward VIII) rằng nhà vua phải thúc đẩy cuộc hôn nhân của họ vì bà không chịu làm thiếp. Bốn trăm năm sau, Wallis chỉ xin làm “mâitresse en titre” của nhà vua (với điều kiện nhà vua đừng cưới ai khác) thế mà cũng không xong! Mặc dù báo chí Mỹ và Âu châu theo dõi sát nút chuyện tình “Wally” này, báo chí Anh vẫn không công bố việc thoái vị của nhà vua một tuần trước khi xảy ra; không phải để bảo vệ đời tư của hai người mà để tránh cảm tình nồng hậu của thần dân sẽ khiến nội vụ khó điều đình và kế hoạch đưa ông em dễ sai bảo George VI (cha đẻ đương kim Nữ Hoàng Anh) lên nối ngôi bị ảnh hưởng.

Buổi ký thỏa ước thoái vị diễn trong nội bộ cung cấm hồi 10 giờ sáng hôm 10/12/1936; trước mặt cả ba người em. Hôm sau 11/12 vào lúc 1:52 giờ Greenwich Mean Time (GMT), nhà vua tuyên bố thoái vị trước thần dân trong đế quốc. Trong diễn văn thoái vị có đoạn: “Ta thấy không thể chịu gánh nặng trách nhiệm; và để giải tỏa bổn phận của nhà vua, ta muốn làm mà không cần sự giúp đỡ hay ủng hộ của người phụ nữ mà ta yêu thương”. Một phần của diễn văn này viết bởi Winston Churchill, cố vấn nhà vua và thủ tướng tương lai nổi tiếng thời thế chiến II, một cố vấn chống đối việc thoái vị gây ra bởi thủ tướng đương nhiệm. Đoạn khác trong diễn văn- dễ nhận ra - là lời lẽ của Wallis mặc dù bà bảo chẳng biết gì về việc thoái vị này cho đến khi “fait accompli”! Giáo hội Anh giáo trong một buổi phát thanh hồi đó qua TGM Cosmo Gordon Lang; đã ngân nga rằng “nhờ Thượng Đế mà ông ấy có được chức phận cao và thiêng liêng; vậy mà bởi ý riêng, ông ấy đã thoái thác. Ông ấy đã trút bỏ sự tín nhiệm. Bằng lời lẽ thẳng thừng, ông ấy đã cho chúng ta biết ý định của mình. Thật là một hang động cho hạnh phúc cá nhân! Thật lạ đời và đáng buồn cho một ý định như thế mặc dù nó phát xuất mạnh mẽ từ con tim ông nhưng ông sẽ chuốc lấy hy vọng quá bất như ý và bỏ rơi một sự tín nhiệm quá ư to tát!”
Khác với các vị vua tiền nhiệm các thế kỷ trước, Edward không muốn đơn thuần một sự tằng tịu nhếch nhoác kiểu “đục tường khoét vách”; ông cần một người vợ và người ấy phải là Wallis! Hôm sau, một ngày sau khi thoái vị, ông bà băng qua eo biển rời tổ quốc để vào Pháp rồi đi Áo; tuân theo “hợp đồng” miệng với ông vua em (có lẽ do nội các Anh soạn) rằng ông và vợ vĩnh viễn không được trở về thường trú ở quê nhà nữa. Trong hồi ký về chuyện này, có đoạn cựu hoàng viết ông đã : “. . . hăm hở rời đi trong êm thắm; không có hộ tống ra hải cảng Portsmouth. Ngắm bờ biển nước Anh lùi xa, tôi đã khóc vì nhiều xúc cảm. Nếu việc rời bỏ ngai vàng khốn khó bao nhiêu thì việc rời bỏ quê hương của tôi càng khốn khó bấy nhiêu . . . chiếc cầu treo còn nhấc lên sau lưng tôi . . .”. Thời gian đầu, ông thường gọi phôn về người em vòi tiền và thúc giục việc phong tước “Công Nương” cho vợ ông nhưng kết quả bị CP Anh cắt đường giây điện thoại! Có lúc ông đòi trở lại Anh thì bị hai mẹ con ông em đe cúp lương! Lương của ông lúc đầu do ông em trả bằng tiền túi; sau khi được phong Công Tước mới nhận được phụ cấp của chính phủ Anh. Ngoài ra còn có lợi tức từ buôn bán lậu ngoại tệ. Tài sản của ông gồm hai lâu đài vua cha để lại cho hồi năm 1930 là Sandringham và Balmoral.

Hôm 8/3/1937, cựu hòang Edward VIII được phong Công Tước xứ Windsor; thế mà nhiều người trong hoàng gia vẫn không chịu xem Wallis là Công Nương! Ngày 3/5/1937 Wallis mới nhận được chứng chỉ ly dị chính thức rồi thành hôn với Edward hôm 3/6/1937 tại lâu đài Château de Candé gần tỉnh nhỏ Tours ở Pháp; gia cư của một viên chức đảng Phát-xít thân Hitler. Cô dâu mặc bộ nhiễu lụa crêpe màu xanh dương; xỏ chiếc nhẫn cưới bằng vàng xứ Welsh. Không ai trong hoàng gia hay triều đình có mặt theo lệnh cấm của ông em George VI. Họ hưởng tuần trăng mật trên một toa xe riêng gắn them vào đoàn tàu hỏa do Benito Mussolini thuê mướn. Cô dâu nay lấy lại tên cũ Wallis Warfield hôm 3/6/1937. 

Cựu hòang sống với vợ như một kiều dân lưu vong ở Pháp. Tại đây, vợ ông đóng vai “gia chủ”. Có lần trước mặt bạn bè, bà đã bắt ông thay vớ cho bà. Có người kể “Edward khom xuống thay vớ cho vợ; hứng thú từng giây phút nhịn nhục ấy”. Chả thế mà cái bản mặt xã hội ấy đã gọi ông ta là “chó nhà” của Wallis! Ông bạn Meicalfe của ông đã không ngần ngại nêu ý nghĩ của mình về Wallis với các bạn bè rằng “Ối giời, cái mụ chó già ấy còn chơi ác với ông ta dài dài”. Một hôm trong một dạ tiệc, Công Tước Edward dặn người hầu nhắn dùm người tài xế về lộ trình ngày hôm sau, Wallis đã đập bàn khiến ly chén kêu loảng xoảng rồi quát “không bao giờ, không còn bao giờ ông được ra lệnh trong cái nhà này!”. Rồi để cố dằn cơn giận, bà ta giải thích với khách khứa lúc đó vẫn chưa hết kinh hoàng rằng “các ông bà thấy đó, Công Tước điều khiển mọi thứ bên ngoài gia đình còn trong nhà phải để tôi chứ!”. Edward nhịn vợ rồi chỉ lầm bầm “xin lỗi”; nhưng không rõ xin lỗi ai; khách hay “sư tử cái”?! Có lần Wallis thú nhận với một bạn đồng hành trong một cuộc du lịch rằng “không ai biết được tôi đã phải khó nhọc ra sao để cố làm cho ông nhà bé bỏng của tôi cảm thấy bận rộn”! Tại một dạ tiệc ở Palm Beach, bà vợ nổi nóng về trang phục thiếu “à la mode” của ông nên đã gạt một dĩa “hors d’oeuvres” từ một hầu bàn vào tay ông chồng rồi phán “Đấy, nếu ông cứ ăn mặc như một hầu bàn thì cũng phải hành xử như thế này này!”. Mỗi lần ông đòi hỏi điều gì gây khó chịu, bà thường gắt lên “ông nên nhớ rằng ông không còn làm vua nữa đâu đấy nhé!”. Đối với cựu hoàng, thế mà cũng đáng giá để đánh đổi ngai vàng lấy “sợi giây thừng” Baltimore này, bất kể những chuyện diễu dân gian thường được lập đi lập lại rằng ngài cựu hòang, “người từng là Đô Đốc một hạm đội lại trở thành ‘đệ tam lang quân’ của một ‘mợ nạ dòng’ cựu thuộc địa Huê-kỳ quốc”! 
Trước đó, hồi đầu cuộc chiến vào tháng 9/1939, hai ông bà có trở lại Anh bằng tàu chiến Anh “HMS Kelly” để ông nhận chức Thiếu Tướng đứng đầu phái bộ quân sự Anh tại Pháp. Trong thời kỳ chế chiến II, để tránh nguy cơ ông cựu hoàng thân Phát-xít có thể gây ra cho Anh quốc và bản thân ông khỏi bị Hitler bắt cóc, Thủ tướng Churchill đã đe dọa đưa ông cựu hoàng ra tòa án quân sự rồi cho tàu chiến Anh đưa hai ông bà đi sống lưu vong ở Nassau, Bahamas hồi tháng 8. Ông em George VI phong cho ông làm Thống Đốc và Tổng Tư Lệnh trên đảo. 

Khi Hitler chiếm một nửa phía bắc nước Pháp hồi tháng 5/1940, hai ông bà chạy xuống Biarritz rồi qua Tây-ban-nha (Spain) tháng 6/1940. Đến tháng 7 sau đó, họ qua Bồ-đào-nha (Portugal); ngụ tại nhà của Ricardo de Espirito Santo, chủ một ngân hàng. Trong thời gian ở vùng Đức chiếm đóng của Pháp, ông được Hitler cho lính gác trước cửa nhà ở Paris và  Riviera; không rõ để bảo vệ hay để cầm chân?! Việc ông thoái vị khiến Hitler rất thất vọng. Albert Speer bảo Hitler “tôi đoan chắc qua ông ấy, quan hệ thân hữu Anh-Đức sẽ bền vững. Nếu ông ta tại vị, mọi sự sẽ diễn tiến khác hẳn. Sự thoái vị của ông là mất mát lớn cho chúng ta”. Ngày đầu rời nước Anh sang Pháp, trên đường đi ngang qua các ga, họ ghé thăm Munich; được Hitler đón tiếp nồng hậu tại lâu đài nghỉ hè của nhà độc tài ở Obersalzberg; họ chào nhau theo kiểu phát-xít và chuyện trò suốt hai giờ liền! Rudolph Hess hồi đó đã lạc quan bảo Hitler “không cần phải mất một mạng lính Đức để chiếm Anh quốc. Vị Công Tước và bà vợ khôn khéo của ông ta rồi ra sẽ dâng nộp nó”. Trong một trận thắng lớn, Hitler định sẽ khôi phục ngôi vua cho Edward sau khi chiếm đóng nước Anh nhưng dự định bị thất bại; ban đầu do quá bận việc nội bộ; sau cán cân quân sự đã nghiêng về phía Đồng Minh. Khi hay tin Edward VIII thoái vị, Hitler than lên một cách rầu rĩ  “tôi đã mất một người bạn trong mục tiêu của mình!”. 

Một số tác giả cho rằng hoàng gia đã bí mật cho điệp viên M15 là Anthony Blunt đi Schloss Friedrichshof để tìm bằng chứng bà Wallis làm điệp viên cho Đức; nhưng thật ra điệp viên này chỉ tháp tùng Owen Morshead theo lệnh George VI qua Đức tháng 3/1945 để bảo vệ những văn tự chủ quyền tài sản của Victoria, hoàng hậu Đức, con gái của hoàng hậu Anh Mary khỏi bị thất lạc hay chiếm đoạt. Về lập trường thân Phát-xít của cựu hoàng, cựu đại sứ Áo- bá tước Albert von Mensdorff Pouilly Dietrich, bạn của vua cha George V- cho rằng Edward chỉ thán phục chế độ Đức Quốc Xã vì nó đủ sức để đánh bại Cộng Sản. Sau thế chiến này, cựu hoàng có xác nhận trong hồi ký của ông rằng ông chỉ thán phục chứ không thiên Nazi. Viết về Hitler trong nhật ký, ông nhận xét “lãnh tụ (Đức) đến với tôi như một gã khùng”

Trong khi nước Anh khốn đốn vì chiến cuộc, hai ông bà cựu hoàng sống thoải mái ở Bahamas. Hồi còn ở Pháp, thành phố Paris cho họ thuê trên danh nghĩa căn nhà số 4 đường Route du Champ d’Entrâinement ở Neuilly sur Seine thuộc Bois de Boulogne; được miễn thuế qua danh nghĩa tòa đại sứ Anh và phái bộ quân sự Anh tại Pháp. Họ thuộc giới “bon vivant” và “célébrités” ở những “café société” và “hôtes” ở những dạ tiệc linh đình trong hai thập niên 1950s và 1960s. Theo một thống kê, chi phí của bà vợ ông hoàng về quần áo hàng năm lên đến $25,000 bảng Anh (# 351,000 USD)! Họ đi lại New York-Paris như đi chợ. Bà cũng chăm sóc quần áo cho ông không kém; thường nhắc tuồng ông về trang phục vest trắng, nơ đen. Họ yêu say đắm loài chó mũi tẹt mà họ nuôi trong nhà. Họ là thượng khách của TT Eisenhower năm 1955 và Nixon năm 1970 tại tòa Bạch Ốc. Họ được bà cháu gái con ông em là nữ hoàng Anh Elizabeth đến thăm nhân chuyến công du Pháp năm 1972. Sau những cuộc du lịch, mua sắm, chơi golf và tennis, đi hội chợ, dự và tổ chức tiệc tùng khoản đãi bạn bè hay thân quen có lần kéo dài đến mấy tháng, hai ông bà thường để lại một số bill nợ tiền điện thoại và tiền “pourboire” cho các hầu phòng, hầu bàn. Tuy nhiên, cựu hoàng Edward cũng được báo chí ngợi khen trong việc xóa mù chữ và thất nghiệp trên đảo Bahamas mà ông làm Thống Đốc. 

Sự nghiệp cầm bút của ông cũng khá thành công. Ngoài hồi ký “A King’s Story” xuất bản năm 1951 (nội dung chống chính trị cấp tiến) còn có hồi ký 2 tựa đề “A Family Album” viết 9 năm sau (viết về thói quen và trang phục trong hoàng gia; từ nữ hoàng Victoria, ông nội, bố đến chính mình). Ngoài ra ông còn là tác giả quyển “The Crown and The People 1902-1953”. Hồi phong vương cô cháu gái Elizabeth II năm 1953, thay vì về London tham dự, ông ở lại Paris theo dõi TV và được các báo “Sunday Express” và “Women’s Home Compassion” mướn viết phóng sự buổi lễ này. Họ cũng là khách mời của các show TV Mỹ 1956 và BBC năm 1970.
Hồi về thăm London năm 1965, hai vợ chồng đã được nữ hoàng và một số trong hoàng gia ghé thăm rồi ở lại đây dự tang lễ công chúa Royal. Năm 1967 họ về dự sinh nhật 100 tuổi của bà mẹ; người vẫn giận ông suốt đời và thường hay lẩm bẩm cằn nhằn về ông; lập đi lập lại câu “bỏ tất cả để chỉ được có ngần ấy!”. Trong một thư viết cho mẹ ông năm 1939 có đoạn “lá thư gần đây nhất của mẹ đã phá hủy chút tình cảm cuối cùng về mẹ trong con và khiến quan hệ bình thường về sau giữa mẹ con ta khó xảy ra”. Năm 1968 họ về dự tang lễ công chúa Marina và cũng là lần chót đặt chân lên đất Anh! Hai chứng bệnh kinh niên của ông mà nặng nhất là ung thư cuống họng; hậu quả của thói ghiền hút thuốc lá từ thuở nhỏ đã khiến ông phải nằm bệnh viện ở Houston tháng 12/1964 rồi tháng 2/1965. Suốt năm 1971 bệnh càng nặng rồi ông mất ngày 28/5/1972; đúng một tháng trước sinh nhật 78 tuổi! Thi hài được đưa về London quàn ở Windsor thay vì tòa thị chính Westminster như các quốc vương khác. Bà vợ Wallis- Công Nương Windsor- cũng bệnh hoạn đã đến viếng xác chồng hôm 3/6/1972; cũng là ngày kỷ niệm 35 năm thành hôn với ông. Ông được chôn cất tại nghĩa trang hoàng gia ở Frogmore, nơi ông thường chơi đùa thuở nhỏ. 

Bà Công Nương Windsor cũng bị giảm sức khỏe khi đã “bảy bó”; lại bị té ngã hai lần “thấy ông bà ông vãi”; một lần gãy xương hông năm 1973 ở tuổi 78; vài tháng sau bị gãy mấy xương sườn. Bác sĩ điều trị phải khó nhọc lắm mới nhét được thuốc mê vào cái cổ teo bởi giải phẫu thẩm mỹ quá nhiều lần (hồi đó chưa có thuốc tiêm?). Thứ an ủi nhiều nhất cho người đàn bà góa lúc cuối đời là rượu Vodka ngâm nước đá lạnh! Bà ngày càng bị mất trí nhớ bởi chứng “dementia”; lại sinh chứng gắt gỏng cộng vào thói sỗ sàng sẵn có khiến có lần bực mình vì thực đơn khó nuốt hay lầm lẫn nào đó của nhà hàng Waldorf Astoria ở New York, bà đã rít lên trong phôn mắng người đầu bếp “phải mày là thằng chó đẻ đã nấu món cá hồi chết tiệt lên đây phải không, hả ?!”. Anh đầu bếp chỉ còn biết “tránh voi (cái) chẳng xấu mặt nào”! Bà sống 5 năm cuối hoàn toàn ẩn dật và chết ở Paris tại nhà riêng ở Bois de Boulogne hôm 24/4/1986; hưởng thọ 91 tuổi! Vài người của hoàng gia Anh; kể cả hai mẹ con Nữ Hoàng Anh Elizabeth (em dâu và cháu) đã đến dự tang lễ và lễ hạ huyệt tại nghĩa trang hoàng gia ở London; có lẽ để chứng kiến tận mắt cho khỏi ngờ vực rằng bà chị dâu và bác dâu từ nay sẽ để họ được yên thân!! 

Bỏ qua một bên khía cạnh gia phong và chính trị, cựu hoàng Edward VIII đã chứng tỏ là một người giàu nhân bản; xem thường địa vị xã hội cao quý nhất mà hiếm ai trên đời được thừa hưởng. Ông trọng tình nghĩa hơn tất cả. Sự long đong sau khi thoái vị, sự thiệt thòi về tình cảm trong gia đạo, sự mất mát về quyền lợi cá nhân không chỉ là thước đo bản chất trọng nhân nghĩa và can đảm, đức tính thẳng thắn và khiêm cung của cựu hoàng, mà còn là tình ca muôn thuở, một chuyện thần tiên- loại Cinderella hay Tấm Cám- nữa; đẹp đẽ và thú vị cho những thế hệ mai sau thưởng ngoạn. Nhìn lại từ thế kỷ 21 này, đây chắc hẳn đã là mối tình lãng mạn nhất thời đại! 
HÀ BẮC

Vì Sao Tôi Vẫn Thích Đàn Ông Việt?‏

Tôi thích đàn ông Việt vì những đại từ nhân xưng tiếng Việt. Tôi không tìm được cảm xúc trong you, I, you, me bởi nó không cho tôi cảm nhận được sự khác biệt tình cảm của người mình đang nói chuyện. Đây là sự khác nhau giữa tiếng Việt với tiếng Anh. 
 
Với người yêu, anh em, bạn bè, cha mẹ, thầy cô, tất tần tật trong tiếng Anh đều dùng you và I. Nếu là vợ chồng, tình nhân, thương yêu lãng mạn thì dùng honey (mà có lần ngồi ở văn phòng nha sĩ, cặp vợ chồng Việt nam bên cạnh xưng hô một honey, hai honey với nhau khiến tôi sởn hết da gà). Với tiếng Việt, tôi yêu những anh ơi, em à, em bảo anh này, cái gì đó em. Hay, bố ơi mẹ nhờ, vợ ơi chồng bảo. Tôi từng xúc động khi nghe bác gái chỗ tôi làm gọi mình xưng em với bác trai. Ngọt ngào kiểu người Nam thì gọi cưng, bực mình kiểu người Bắc thì xưng đây và gọi đó, lúc tức giận chuyển sang anh/cô và tôi. Mày, tao, thằng kia, con này là lúc bát nước đã tràn, tốt nhất hai người đừng nên gặp lại nhau. 
 
Cung bậc biểu đạt xúc cảm trong những đại từ nhân xưng đó hoàn toàn khác nhau. Đơn giản hơn, tôi thích đàn ông Việt vì ngôn ngữ Việt, vì chúng tôi sẽ cùng nói chung một ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ đó, nếu nhắm mặt lại chúng tôi vẫn sẽ dễ dàng biết được người kia đang ở trong trạng thái tình cảm nào. Tuy nhiên, chưa chắc tôi gặp một người đàn ông Việt, nói tiếng Việt với nhau trong cùng một thứ ngôn ngữ bởi vì ngôn ngữ là văn hóa và tâm hồn của một cá nhân riêng biệt. Nhưng rõ ràng, tôi sẽ dễ dàng chia sẻ cảm xúc yêu, ghét, giận hờn trong ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Tôi sẽ dễ dàng diễn đạt vì sao tôi thích đi đầu trần trong mưa, vì sao những sóng lúa chiều làm tôi xao xuyến, vì sao tôi đôi khi vẫn thèm được đi trên những chuyến tàu chật chội và dơ dáy, vì sao tôi thích được nghe những bài hát ru, ...  
 
Tóm lại, tôi vẫn thích đàn ông Việt dù bất cứ ở đâu!
 
Trần Thị Hoài