Tuesday, December 12, 2017

MỘT DÂN TỘC ĐÁNG THƯƠNG NHẤT THẾ GIỚI


Dân số Palestine hiện nay khoảng trên 8 triệu người. Số người đang sống ở dải Gaza, West Bank và trong lãnh thổ Do Thái chỉ trên 4 triệu. Hơn một nửa đang sống ở những quốc gia Arab và các nước trên thế giới được coi như người tỵ nạn Palestine. Hiện đang có khoản 5 triệu người Palestine phải sống nhờ vào sự chăm sóc của cơ quan UNRWA (United Nations Relief and Works Agency for Palestine Refugees in the Near East).
Dân tộc Palestine có lẽ là dân tộc đau khổ nhất trên thế giới, trong lịch sử họ chưa từng có quốc gia, và họ rất khó có thể tìm được một quốc gia trong giai đoạn hiện nay khi Chủ nghiã Zionism chủ trương phải lấy lại tất cả “Vùng Đất Hứa” theo Cựu Ước, và người Do Thái gần như thao túng chính sách ngoại giao của nhiều cường quốc Tây phương, trong đó có Hoa Kỳ. Cùng lúc đó, người Palestine lại cũng là con bài mà thành phần Hồi giáo Sunni cực đoan muốn qua họ, dùng sự đàn áp của Do Thái để kích động tinh thần chống Tây phương, chống chính phủ thế quyền, vua chúa tại các nước Á Rập. Khối Shiite do Iran lãnh đạo cũng muốn dùng sự chiến đấu của người Palestine để cạnh tranh ảnh hưởng và cảm tình trong khối Hồi Giáo.
Tên gọi Palestine xuất hiện đầu tiên trong Cựu Ước là Philistin. Theo tài liệu của đền thờ cổ Medinet Habu, Palestine là dân Peleset, một dân tộc miền biển, đã xâm nhập Ai Cập dưới triều đại vua Usimare Ramesses III (cũng gọi là Ramses III hay Ramese III), là vị Pharaoh thứ nhì của Triều đại thứ 20. Peleset được dịch qua tiếng Anh là “Philistia”. Hiện cũng không thể xác định người Palestine hiện nay có phải là con cháu người Philistines hay không. Theo lịch sử, vào năm 1000 BC, vua David của Do Thái chinh phục người Philistines. Vào năm 922 BC vương quốc Israel bị chia làm đôi: Israel ở phía bắc và Judad ở phía nam. Năm 721 BC Israel bị rơi vào tay Assyria, đến năm 586 BC Judad bị Babylon chinh phục, thành phố Jerusalem bị phá hủy, người Do Thái bị lưu đày. Theo các nghiên cứu gần đây, người Do Thái và Palestine có cùng huyết thống. Theo họ, trong các đợt bị lưu đày, nhiều người Do Thái đã trốn tránh, cương quyết tiếp tục ở lại quê hương, nhưng theo thời gian cả ngàn năm, họ đã thay đổi ngôn ngữ, phong tục, để thích ứng với nhiều hoàn cảnh cay nghiệt, và cuối cùng họ đã theo Hồi Giáo. Những kết quả nghiên cứu trên hiện cũng chưa được chính thức xác nhận! Như vậy, dù có phải cùng là con cháu ông Abraham hay không, tiên tổ người Palestine và Do Thái cũng đã từng là anh em trong một quốc gia kéo dài trong nhiều trăm năm. Nhưng ngày hôm nay họ bị chính người anh em của mình trước kia ngược đãi, đàn áp dã man. Họ cũng là nạn nhân của tranh chấp giữa Do Thái và Hồi giáo.
Palestine, sau thời kỳ Babylon là đế quốc Ba tư, La Mã cai trị. Tiếp theo đó là người Á Rập Hồi giáo, đế quốc Thổ. Sau Thế Chiến Thứ Nhất, Palestine lại bị lệ thuộc Anh.
Người Do Thái sau khi bị đế quốc Babylon và Đế quốc La Mã lưu dày, bán làm nô lệ, đã đi sinh sống nhiều nơi trên thế giới không còn hiện diện nhiều ở vùng đất Palestine thuộc Anh (lãnh thổ Do thái hiện nay, Tây Ngạn và Gaza), vào năm 1850 trong toàn vùng chỉ có khoảng 12 ngàn người.
Vào năm 1897, người Do Thái hợp đại hội phục quốc đầu tiên ở thành phố Basle, Thụy Sĩ, bàn cách thành lập quốc gia Do Thái. Đại hội trong năm 1904 đề nghị thành lập quốc gia Do Thái ở Á Căn Đình (Argentina), nhưng đại hội năm 1906 đã quyết định quốc gia Do Thái phải là Đất Hứa Palestine. Trong năm 1917, Ngoại trưởng Anh Arthur J. Balfour đã gởi thư cho một lãnh tụ phục quốc Do Thái hứa hẹn sẽ giúp thành lập quốc gia Do Thái. Sau Thế chiến Thứ Nhất, người Do Thái các nơi trên thế giới ồ ạt trở về vùng đất này. Từ năm 1920 tới năm 1945 có khoảng 350 ngàn người Do Thái di cư hợp pháp vào Palestine.
Chủ nghiã phục quốc Do Thái không chỉ đơn giản có một quốc gia Do Thái sống hoà bình bên cạnh quốc gia Palestine hay chấp nhận người Palestine sống chung với Do Thái. Quốc gia Do Thái đối với người Zionists phải là đất của vua David, Salomon, đất mà Chúa Trời hứa hẹn với con cháu ông Abraham sẽ từ sông Ai cập tới sông Euphrates có đất Kenite, Kamonite, Hittite, Perizzite, Rephain, Amorite, Canaanite, Girgashite và Jubesite. (Genesis 15:18-20) chứ không phải biên giới hiện nay.
Họ cắt nghiã giai đoạn 1.000 năm trong sách Khải Huyền (Revelation) rằng thì là.. một khi người Do Thái phục hồi lại cõi bờ vua David, Salomon, sẽ tới thời kỳ mạt thế và thăng thiên khoảng 7 năm, Chúa Jesus sẽ đến từ trời, hiện rực rỡ trong mây đón rước những người tin Chúa lên thiên đàng. Sau giai đoạn này, Chúa Jesus sẽ trở lại trần thế, chọn 144.000 người Do Thái cùng Ngài cai trị các nước trên thế giới trong vòng 1000 năm cho tới ngày phán xét cuối cùng.
Những điều tin tưởng trên của người Zeonist có lẽ hoàn toàn bóp méo kinh điển. Nếu Chúa Trời đã có hứa với ông Abraham thì phải chăng con cháu của ông ta, vua David cũng đã từng nhận đất mà Ngài đã hứa? Kinh Thánh đã xác định Chúa Trời đã chu toàn lời hứa qua các đoạn Joshua 21:43, Kings 8:56. Người Zeonist cũng đã quên, không nhớ rằng tổ tiên của họ đã từng chối từ không công nhận chúa Jesus là con của Chúa Trời. Qua Kings 9:6-9, Chúa Trời đã cảnh cáo nếu con cháu người Do Thái không theo Chúa, không giữ lời Chúa, Ngài sẽ tước bỏ những đất đai mà Ngài đã ban cho. Sự sụp đổ của vương quốc Israel-Juda phải chăng đã là sự trừng phạt của Chúa Trời, và tội chối Chúa Jesus không công nhận Ngài là con Chúa Trời cũng đã làm cho họ bị đế quốc La Mã bán làm nộ lệ khắp thế giới.
Tuy nhiên, không phải chỉ có người Do Thái tin tưởng những điều huyễn hoặc mà các nhà tiên tri Christian Zeonists nêu lên. Nó được rộng rãi tin tưởng ở Anh và Hoa Kỳ. Chính vì những tin tưởng như vậy mà Balfour đã cam kết với người Zeonist ở Anh, và Anh Quốc đã ngầm giúp cho người Do Thái trở về Palestine trong thời gian cai trị vùng Palestine.
Ở Hoa Kỳ, hội Người Thiên Chúa Đoàn Kết cho Do Thái (Christians United for Israel – CUFI) là một hội rất mạnh. Người thành lập CUFI là Mục sư John C. Hagee của Nhà thờ Cornerstone ở San Antonio/Texas có 19 ngàn tín đồ, giám đốc global Evangelism Television, đã công khai tuyên bố quốc gia Do Thái phải gồm Tây Ngạn và Gaza, đây là đất Chúa tuyệt đối dành riêng cho người Do Thái. Trong tháng 7 năm 2007, Mục sư Donald Wagner của đạo Presbyterian nói rằng điều ông lo ngại nhất là Christian Zeonists với trên 1 triệu tín đồ Evangelical trên thế giới đã hết sức cực đoan chống Hồi Giáo và ủng hộ Do Thái có thể tạo thêm hận thù giữa người Christian và người Hồi Giáo. Các nhà thờ Công Giáo (Catholic), Lutheran và Orthodox trong vùng Trung Đông cũng rất lo sợ luận điệu của Evangelicals.
Người phục quốc Do Thái không chỉ tin tưởng quốc gia của họ phải bao gồm những vùng đất Tây Ngạn và dải Gaza, Jerusalem phải là kinh đô của họ mà họ cũng không chấp nhận sống chung với người Palestine.
Trong năm 1895, ông Theodor Herzl được coi là nhà tiên tri của Zeonism đã viết: “ Hãy tước đoạt nghị lực của dân tộc không đáng một xu trong nước chúng ta bằng cách tước đoạt tài sản và xua đuổi chúng một cách vô cùng thận trọng.” Người lãnh đạo Do Thái đầu tiên là ông David Ben Gurion đã triệt để thực hiện chủ trương của Herzl ngay từ lúc làn sóng di dân Do Thái mới bắt đầu trở về “Đất Hứa” với 2 chính sách là “Mua đất của người Palestine” và “chỉ dùng công nhân Do Thái”. Người Do Thái đã thực sự bắt tay bí mật thực hiện chính sách thanh lọc chủng tộc ngay từ năm 1937. Sau khi Ủy ban do ông Earl Peel cầm đầu đưa ra kế hoạch phân chia Palestine, ông Ben Gurion đã tuyên bố: “không thể có một quốc gia Do Thái trong đó có một thiểu số người Á Rập nguy hiểm” và “Không thể có quốc gia Do Thái nếu người mọi rợ điạ phương vẫn còn hiện diện trong biên giới.”
Thế chiến Thứ 2 kết thúc, người Do Thái vẫn còn kinh hoàng với thảm trạng Holocaust, nhưng ngay sau đó họ lại không có một chút lòng nhân đạo nào đối với dân tộc Palestine, để mỗi năm người Do Thái tưởng niệm Holocaust, thì người Palestine cũng mỗi năm mỗi tưởng niệm thảm trạng al-Nakba.
Thảm trạng al-Nakba không có giết người tập thể bằng hơi ngạt như Holocaust, nhưng hàng trăm, hàng ngàn người dân vô tội bị xua đuổi khỏi nhà cửa, khỏi làng mạc mà ông cha, tổ tiên của họ đã sống từ bao ngàn năm trước.
Ngày 14 tháng 5 năm 1948 là ngày Anh chấm dứt sự cai trị Palestine cũng là ngày Do Thái tuyên bố độc lập, thì từ nhiều tháng trước, Ben Gurion đã ra lệnh cho lực lượng dân quân Haganah phải dùng mọi cách từ đe doạ tới khủng bố để làm cho người Palestine phải đi khỏi lãnh thổ càng nhiều càng tốt. Nhà sử học Edgar O’balance đã viết lại thảm trạng: “ Xe Do thái với máy phóng thanh ra lệnh cho người Á Rập phải nhanh chóng di tản.. những làng xã người Palestine bị bao vây buộc phải ra đi trong vòng 2 hay 3 ngày .. xe ũi đất Do Thái tới dỡ nhà cửa ngay trước mắt họ.”
Từ cuối năm 1947 tới tháng 3 năm 1949, Do Thái đã hệ thống xua đuổi người Palestine trong 4 đợt, số người bị buộc phải ra đi trên 800.000 người. Dọn sạch khoảng 500 thị trấn, làng mạc và bộ lạc Palestine. Theo ước tính của Liên Hiệp Quốc chỉ có 150 ngàn trong số 950 ngàn người Palestine lúc bấy giờ nhất định ở lại với quê hương của họ. Qua cuộc chiến 1967 giữa Ai Cập và Do Thái, trên 300 ngàn người Palestine nữa đã phải trở thành người tạm trú ở những nước lân cận.
Đức Chúa Trời chắc chắn phải là đấng nhân từ, nếu người Do Thái xua đuổi người Palestine để lập lại vương quốc David, Solomon, Ngài sẽ cho Chúa Jesus xuống trần để cùng người Do Thái cai trị thế giới hình như nghe cũng chẳng thuận tai chút nào. Thế nhưng, đây là sự tin tưởng của Christian Zeonists, của Evangelicals, của hàng triệu người có thế lực chính trị tại nhiều cường quốc, cho nên người Palestine có lẽ khó tìm được những ngày bình an, dù họ có từ bỏ những chiến thuật đấu tranh sai lầm của họ hiện nay hay không.
Xin cầu nguyện cho người Palestine, cầu nguyện cho họ sớm thấy rằng hình thức đấu tranh của họ không thích hợp, chỉ phản lại chính nghiã của họ. Nhưng cũng xin cầu nguyện cho những người Zeonists sớm thấy rằng Chúa Trời là đấng nhân từ. Ngài có ban đất cho Do Thái thì chắc chắn cũng chọn lựa một cách nhân từ, tự nhiên chứ không phải xua đuổi, tước đoạt quyền sống, đàn áp, một dân tộc khác. Cầu nguyện cho thảm trạng chiếm đóng trong thế kỷ thứ 21 sớm chấm dứt, dân tộc Palestine có thể sống bình an, mưu cầu hạnh phúc cho chính họ như các dân tộc khác trên thế giới. Cầu nguyện cho trẻ em Palestine không còn ngồi tù, không còn đi ném đá quân nhân, cảnh sát Do Thái để bị bắn chết. Cầu nguyện cho chúng có thể cắp sách tới trường như trẻ em các dân tộc khác trên thế giới.

Huệ Vũ

Wednesday, December 6, 2017

Cô gái Trung Quốc gặp lại cha mẹ ruột sau hơn 20 năm bị bỏ rơi

Sau hơn 20 năm bị bỏ rơi, Kati Pohler, cô gái Trung Quốc được một gia đình Mỹ ở Michigan nhận làm con nuôi, vừa có cuộc đoàn tụ kỳ diệu với cha mẹ ruột trên cây Cầu Gãy (Broken Bridge) tại thành phố Hàng Châu, tỉnh Triết Giang.
Câu chuyện được đăng trên báo South China Morning Post (SCMP) xuất bản ở Hongkong và dưới đây là phần tóm lược.

Câu chuyện xảy ra cách đây 20 năm, khi Fenixiang Qian, mẹ Kati, mang thai cô và lén lút chờ ngày sanh nở, sống cùng chồng và đứa con gái ba tuổi ở ngôi nhà bên con kênh hẻo lánh ở Tô Châu, tỉnh Giang Tô.
* Buộc phải bỏ con
Sáu tuần sau đó, bà Qian sinh cô con gái thứ hai, mà theo ‘chính sách một con’ nghiêm ngặt của Trung Quốc (ra đời năm 1979 để giảm đói) là bắt buộc phải phá bỏ.
Khi vợ sinh con, ông Xu Lida cắt cuống nhau cho bé với chiếc kéo ông tự khử trùng bằng nước sôi. Bà Qian bị mất máu nhiều, hai người sau đó may mắn được một bác sĩ ở gần đó giấu chính quyền, giúp đỡ.
Năm ngày sau, ông Xu Linda, khi đó 24 tuổi, mang đứa con 5 ngày tuổi của mình bỏ ở một chợ rau Tô Châu, kèm theo lá thư: “Con gái chúng tôi, Jingzhi, sinh vào lúc 10 giờ sáng vào ngày mồng 8 tháng 7 âm lịch năm 1995. Chúng tôi buộc phải bỏ cháu ở đây vì nghèo khổ và luật lệ bắt buộc. Cầu xin lòng trắc ẩn của những người cha, người mẹ xa gần. Cảm ơn bạn đã cứu và chăm sóc con gái nhỏ của tôi. Nếu trời nhủ lòng thương, chúng ta sẽ đoàn tụ với nhau trong buổi sáng của lễ hội Qixi tại Cầu Gãy ở Hàng Châu trong 10 hoặc 20 năm nữa”.
Cây Cầu Gãy (Broken Bridge) tại thành phố Hàng Châu, tỉnh Triết Giang. (Hình: SCMP)
Lễ hội Qixi rơi vào ngày Thứ Bảy của Tháng Bảy âm lịch, được xem là ngày Valentine của Trung Quốc. Cầu Broken Bridge thực sự không hề bị gãy, chỉ là một cái tên liên quan tới truyền thuyết của người Trung Hoa.
* Được làm con nuôi

Bé Jingzhi và mảnh giấy đi kèm được chuyển tới bệnh viện trẻ em công cộng ở thành phố Tô Châu. Sau đó được nhận nuôi bởi một cặp vợ chồng người Mỹ tên Ken và Ruth Pohler ở Hudsonville, tiểu bang Michigan, thông qua Bethany Christian Services, một trong những cơ quan nhận con nuôi quốc tế lớn nhất cho người Mỹ.

Mùa Hè năm 1996, Ken và Ruth Pohler cùng 9 cặp vợ chồng người Mỹ khác được tổ chức Bethany Christian Services đưa đến viện mồ côi ở Tô Châu, nơi tất cả đều nhận nuôi các bé gái. Phải là con gái, vì người Trung Quốc yêu thích con trai. Khi mang Jingzhi lên xe buýt, hai ông bà Pohlers thấy lá thư tay của cha mẹ Jingzhi và nhờ một người thông dịch.
“Cô ấy (người thông dịch) rất xúc động, vừa khóc nức nở vừa đọc bức thư ấy cho chúng tôi nghe bằng tiếng Anh. Đó là những tiếng nói chân thành từ tim,” Ken nói.
Thị trấn Hudsonville, nơi Kati cùng gia đình cha mẹ nuôi người Mỹ sống có khoảng 7,000 người, chủ yếu là người Mỹ da trắng. Kati hiện đang học ở trường Calvin College, trường đại học nghệ thuật tự do liên kết với Nhà thờ Cải cách Cơ đốc, nơi Ken – cha nuôi của cô – là giám sát an toàn trường.
Kati cho biết cô có một tuổi thơ êm đềm, hạnh phúc trong một gia đình theo mô tả của cô “rất tôn giáo” và gần gũi. Các album của gia đình cho thấy Kati tham gia nhiều môn thể thao khi cô còn nhỏ, cô còn chơi đàn violin và piano.
Cô cũng đi du lịch khắp nước Mỹ cùng với gia đình. Ken cho biết “Có những lần đi du lịch theo tour, khi nghe hướng dẫn viên đề cập đến những vấn đề như những đứa trẻ bị bỏ rơi, không tìm được cha mẹ ruột, Kati rất xúc động và khóc.’
Nhưng cặp vợ chồng này không có ý định nói gì với Kati, con gái nuôi của họ về điều này cho đến khi con ít nhất 18 tuổi, và trong trường hợp nó có hứng thú tìm hiểu về quá khứ của mình.
* Lần thứ nhất bất thành
Qian và Xu (cha mẹ ruột của Kati, tức Jingzhi) lớn lên ở quận Baoying, gần Dương Châu, tỉnh Giang Tô. Cũng như bao thanh niên khác ở quê hương thời đó, họ chuyển đến sống ở những thành phố phát triển nhanh của Trung Quốc. Xu chọn Hàng Châu và nơi đây ông gặp Qian. Sau khi kết hôn, họ thuê một căn nhà nhỏ tồi tàn ở ngoại ô Hàng Châu. Rồi họ sinh cô con gái đầu lòng Xiaochen.
Mặc dù hiểu về chính sách một con nhưng vì muốn Xiaochen có em nên họ quyết định sinh thêm một đứa nữa vì nghĩ rằng nơi họ sống cách xa nơi làm việc của các cán bộ kế hoạch hóa dân số. Nhưng khi biết không thể nào thoát khỏi được sự tàn nhẫn của chính sách ‘một con’ và Qian không thể phá thai (vì lúc này thai đã 5, 6 tháng tuổi), đó là lý do bé Jingzhi chào đời rồi phải bị bỏ rơi.
Qian và Xu giờ đây đã là chủ của một tiệm bán đồ cũ và một căn chung cư 2 phòng ngủ tiện nghi. Còn con gái lớn của họ, Xiaochen. là công nhân.
Năm 2005, khi bé Kati tròn 10 tuổi, cũng là lúc hai vợ chồng Qian và Xu đưa nhau đến chiếc Cầu Gãy trong ngày đầu tiên của lễ hội Qixi Festival, theo dự định.
“Chúng tôi đến đó sớm và mang theo một tấm bảng lớn viết tên của con gái, và nội dung tương tự nội dung lá thư chúng tôi đã viết. Chúng tôi phải cố gắng ngăn khao khát muốn chặn từng cô gái trên cầu để hỏi xem có phải là con mình không,” Xu nói.
Nhưng, đã không ai đến gặp họ. Cả hai bỏ cuộc lúc khoảng 4 giờ chiều trong đói, khát, và thất vọng.
Tuy nhiên, trong lúc ông bà Qian và Xu đến cây Cầu gãy thì gia đình nhà Pohlers, cha mẹ nuôi của Kati, đã nhờ người bạn của một người bạn tìm đến cây cầu ngày hôm ấy.
“Chúng tôi nhớ lời hứa của năm thứ 10 trong lá thư,” Ken nói. “Chúng tôi cầu nguyện xin ý ơn trên về lá thư này, và nói chuyện với một người bạn thường xuyên đến Trung Quốc để làm ăn. Người bạn nói anh ta có thể nhờ một người bạn tên là Annie Wu thử đi tìm cha mẹ ruột của Kati trên cây cầu.’
Vẫn theo lời Ken, ‘Chúng tôi không muốn Kati liên quan đến một sự việc quá mơ hồ như thế này. Nhưng điều quan trọng với chúng tôi là cho cha mẹ ruột của con mình biết con gái của họ đã được nhận nuôi bởi một gia đình rất yêu thương cô ấy.”
Annie Wu đến cây Cầu Gãy sau 4 giờ chiều, chỉ vài phút sau khi Qian và Xu bỏ cuộc. Nhìn qua nhìn lại không thấy người cha hay mẹ tìm con nào, Annie Wu định bỏ đi thì chợt thấy một nhóm người đang quay phim cây cầu cho một đài truyền hình. Annie nhờ họ cho xem lại khúc phim đã quay xem có thấy ai trông giống cha mẹ ruột của Kati không. Rất may mắn, máy quay phim ghi lại rõ ràng hình ảnh của Xu đứng trên cầu tay cầm tấm bảng lớn ghi tên Jingzhi một cách rõ ràng.
Đây là là cơ hội bằng vàng cho đài truyền hình. Họ lập tức phát sóng câu chuyện của Qian, Xu đi tìm đứa con gái đã bị bỏ rơi. Phim được mạng lưới truyền hình quốc gia Trung Quốc chiếu đi chiếu lại, và báo chí chú ý.
Một người bạn ở Hàng Châu nhìn thấy tin này trên truyền hình và nói với Qian và Xu là đã có tin tức về Jingzhi. Hai vợ chồng Qian và Xu đã hân hoan đi gặp Wu qua đài truyền hình đồng thời nhận được một lá thư ẩn danh từ hai vợ chồng người cha mẹ nuôi, và một số bức ảnh. Họ được hứa là sẽ có thêm tin tức.
Rất không may cho Qian và Xu, họ phải chờ thêm 10 năm nữa mới được gặp người con gái bằng xương bằng thịt. Lý do là sau khi báo tin cho họ, gia đình ông bà Pohlers đã yêu cầu Annie Wu chấm dứt mọi liên lạc với Qian và Xu ngay lập tức.
“Chúng tôi lấy những tin gì chúng tôi cần từ Annie, và thấy không cần tiếp xúc thêm nữa.” Ruth nói.
“Chúng tôi quan niệm rằng nên đợi khi Kati lớn lên và xem ý con có muốn có thêm tin tức hay không. Kati là con gái của chúng tôi. Vâng, Kati có cha mẹ ruột, nhưng mối quan hệ sâu sắc hơn với họ sẽ thực sự làm phức tạp mọi vấn đề.”
Annie Wu thay đổi số điện thoại để đảm bảo cắt đứt mọi liên lạc với Qian, Xu và giới truyền thông.
Bức thư của cha mẹ ruột Kati để lại khi quyết định bỏ con. (Hình: SCMP)
* Cuộc gặp gỡ trong mơ
Khi nhìn thấy tấm hình của Kati, cả hai ông bà Qian và Xu không nghi ngờ gì Kati chính là Jingzhi của họ. Kati có đôi mắt của mẹ. Và như một nhà thiên văn học mê say quan sát bầu trời không ngừng nghỉ để tìm kiếm tín hiệu đã thu được từ một thiên hà khác, cha mẹ ruột của Kati đã trở lại cây Cầu Gãy hàng năm trong ngày đầu của lễ hội Qixi.
Một ngày, nhà làm phim tài liệu Chang Changfu đã tìm gặp Qian và Xu.
“Tôi từng làm một bộ phim về việc trẻ con Trung Quốc được nhận làm con nuôi khắp thế giới, và được nghe một người bạn nói về đôi vợ chồng đã đi đến cầu gẫy để tìm con gái.” Chang Changfu nói. “Đó là một câu chuyện vô cùng hấp dẫn.”
Chang gặp Qian và Xu sau đó quyết định tìm cách để dò la tung tích cha mẹ nuôi của Kati, bằng cách sử dụng bằng chứng nhỏ bé mà ông có được đó là bức thư nặc danh do vợ chồng Pohlers viết. Bức thư từng nói rằng Kati đã được nhận làm con nuôi ở Tô Châu, rằng Kati bị viêm khớp lúc còn nhỏ, và họ hiện đang sinh sống ở Michigan.
Mạng lưới internet đã ‘phù hộ’ Chang, vì nhà làm phim tài liệu này tìm được một diễn đàn mà các cha mẹ nuôi người Mỹ từng nhận trẻ em từ trại mồ côi duy nhất của Tô Châu về làm con cùng chia sẻ kinh nghiệm. Chang tìm thấy một thông báo của Ken Pohler, đề cập là con gái mình lúc nhỏ từng bị đau đầu gối. Rồi lục tìm hình trên diễn đàn, ông tìm thấy một bức hình của Pohler trông giống hệt hình người đàn ông trong một trong những tấm hình mà Qian và Xu có.
Phải mất vài năm Chang mới thuyết phục được gia đình nhà Pohlers rằng ông chỉ có duy nhất một mục đích là giúp hai bên liên lạc với nhau. Hai vợ chồng Pohler giải thích cho nhà làm phim biết lý do tại sao trong quá khứ họ đã không liên lạc với cha mẹ đẻ của Kati và chờ cho đến khi Kati tròn 20 tuổi.
Hồi năm ngoái, ở tuổi 21, Kati đang chuẩn bị cho một học kỳ trong chương trình trao đổi sinh viên ở Tây Ban Nha, và chợt nghĩ “mọi người ở đó sẽ hỏi tôi về Trung Quốc và Mỹ. Theo lời Kati, ‘khi tôi hỏi mẹ về quá khứ của mình, và khi mẹ nói, ‘Cha mẹ cần cho con biết rằng, cha mẹ biết cha mẹ ruột của con ai.’ Tôi đã rất sốc.’
Sau đó, Kati liên lạc với đạo diễn Chang và đồng ý trở thành nhân vật chính cho phim tài liệu về việc đi tìm con của cha mẹ ruột.
Và cuối cùng họ đã gặp được nhau trên cây Cầu Gãy.
Trong phút giây gặp gỡ, bà Qian òa khóc nức nở, khóc một cách không kiểm soát được, khóc như chưa bao giờ được khóc, những giọt nước mắt của nhiều năm khát khao thống khổ, và của quyết tâm không bỏ cuộc. Cuối cùng, con gái họ cũng đã về nhà.
Qian và Xu sau đó cho biết rằng họ có một chút thất vọng vì Kati đã không gọi họ bằng cha mẹ mà chỉ gọi tên. Họ cũng không nói chuyện với nhau được nhiều vì họ thì không nói được nhiều tiếng Anh, trong khi Kati không nói được tiếng Quan Thoại. Nhưng họ cảm nhận được rằng Kati là một cô gái thực sự tốt. “Chúng tôi giờ đây phải tự nhủ rằng con gái tôi đã lấy chồng đi xa”.
Kati ở nhà cha mẹ ruột hai ngày và ở chung phòng với người chị gái vốn chỉ biết nói tiếng Anh rất hạn chế.
“Thật là cảm động khi gặp gia đình. Tôi rất ngạc nhiên về cảm xúc vỡ bờ của người mẹ Trung Quốc của mình.” Kati nói.
Kati cũng hơi bị lúng túng bởi sự ‘quan tâm đặc biệt’ từ cha mẹ ruột. “Điều đầu tiên họ nói là con gầy quá, phải ăn nhiều hơn ‘Nếu không chịu ăn, mẹ sẽ ép ăn, họ sẽ nuôi tôi. Tôi đoán họ rất buồn vì đã không có dịp săn sóc tôi trong suốt bao nhiêu năm qua!” (HG-Tr.Linh).