Tuesday, March 20, 2018

Kiếp sau … chớ làm phụ nữ Nepal

Là một phụ nữ Việt Nam được sinh ra ở châu Á, tôi đã thấy ở đây, thân phận người phụ nữ chịu rất nhiều thiệt thòi và bất công. Tuy nhiên có đi xa, có học hỏi và nghiên cứu đến thân phận của những người phụ nữ khác trên thế giới, tôi mới thấy phụ nữ chúng ta còn may mắn hơn nhiều nơi, nhất là Nepal. Sở dĩ tôi nói vậy, vì tôi sẽ kể bạn nghe những câu chuyện đường xa, nói về phong tục tập quán lạ đời đã chi phối trực tiếp đến đời sống những người lỡ sinh ra làm phụ nữ trên đất nước Nepal huyền bí.
Cách đây không lâu, ở ga tầu điện ngầm tại thủ đô Stockholm, Thụy Điển, một tấm tranh bích chương được treo trên tường nhà ga đã gây dư luận tranh cãi ầm ĩ. Đó là bức vẽ một thiếu nữ chơi môn trượt băng tuyết đang có kinh nguyệt với tư thế ngồi lộ rõ tâm điểm màu máu đỏ. Bên dưới đôi chân dang rộng là hàng chữ “It’s alright, I’m only bleeding”. Đây là một bức tranh nghệ thuật của Liv Strömquist. Những hành khách đi tàu điện đã sững sờ, có người cười, có người không vui, có người phản đối, không cho đó là nghệ thuật mà là sự kinh tởm, sự xúc phạm, dơ dáy, xấu hổ. Kinh nguyệt cần che đi, dấu kín chứ không phô diễn như vậy.
Theo tôi, hành động treo tấm tranh nghệ thuật ở đó của Liv Strömquist như một thách thức, đối đầu lại quan điểm thành kiến xã hội của con người về thời kỳ kinh nguyệt của phụ nữ. Nếu bạn có đến Nepal bạn mới thấy phụ nữ xứ này khổ sở biết bao với phong tục dành riêng cho người phụ nữ khi tới kỳ “thấy tháng”.

Tôi may mắn được tiếp chuyện với một vị giáo sư đại học về hưu ở Kathmandu, thủ đô Nepal. Ông am tường khoa học nhân văn và đã kể tôi nghe tường tận như sau về những phong tục tập quán, lề luật tôn giáo bộ tộc khắt khe của dân tộc ông.
"Thời kỳ kinh nguyệt của mỗi người phụ nữ khác nhau, có người, trải qua 3, 5, 7 ngày hoặc hơn. Bao nhiêu ngày máu chảy là bấy nhiêu ngày người phụ nữ Nepal chịu đựng khổ nhục từ lúc dậy thì, bắt đầu có kinh cho tới lúc tắt kinh. Những luật lệ quy tắc đưa ra trói buộc và áp đặt trên cơ thể sinh lý, sức lao động, lợi tức, tình dục, hệ tư tưởng và kể cả danh tính của người phụ nữ .Tục lệ được thực thi từ đời tổ tiên của các bộ tộc tương truyền đến đời con, cháu, và đời sau vẫn phải áp dụng. Trong đức tin của đạo Hindu, kinh nguyệt của người phụ nữ là một cái gì xấu xa, ghê tởm, bẩn thỉu, không tinh khiết.
Suốt thời gian kinh nguyệt người phụ nữ, không được phép: vào nhà bếp, đền thờ, ngủ vào ban ngày, tắm, cài hoa, quan hệ tình dục, chạm vào nam giới hoặc nữ giới khác. Họ không được phép cưỡi ngựa, bò, voi, cũng không được lái xe. Phụ nữ được xem là không trong sạch và ôuế, và thường bị cô lập như những người không thể chạm vào. Ở thành thị thì phải vào chuồng thú sau nhà mà ở hay ngủ ngoài sân sau nhà, không gì che chắn. Ở ngoại ô nhất là trên vùng núi họ bị đuổi ra khỏi nhà, phải đi lánh mình vào một cái chòi cất sơ sài bằng cây, bốn bề không có vách, nơi không có ai lai vãng, kể cả cha mẹ và người thân. Người phụ nữ có kinh phải tự lo lấy bản thân mình cho tới khi qua thời gian hành kinh mới được trở về với gia đình. Ngay cả đến người chồng đầu ấp tay gối, cũng không được nhìn mặt, nói chuyện hay chạm tới họ, đụng vào sẽ bị vẩn đục. Ở thành phố, thoáng hơn nhưng họ phải mặc áo sari đỏ trơn không hoa văn để báo cho người khác biết họ đang trong thời gian có kinh nguyệt. Đồ dùng của họ không ai dám chạm tới, nếu không may đụng vào rất phiền phức vì phải đi ra suối, dùng nước suối thanh khiết để tẩy uế, nếu không sẽ bị xui xẻo cho bản thân và cả gia đình họ."
Ký giả Pragya Lamsan đã từng sống và làm việc ở thủ đô Kathmandu đã phát biểu như sau về vấn đề nan giải này:
"Tôi đã đến và chứng kiến sự việc này, càng xa ánh sáng đô thị, sự áp dụng luật lệ "Chhaupadi" này càng gắt gao. Nó không còn là vấn đề của một nét văn hoá riêng mà nó liên quan tới nhân quyền.
Vì bị giá rét(vùng núi cao của dãy Hy Mã Lạp Sơn ở Nepal lạnh kinh khủng, quanh năm bao phủ tuyết) và tình trạng vệ sinh kém mà phụ nữcó kinh nguyệt - bao gồm cả trẻ gái - đã chết trong những ngôi chòi cây. Chỉ một vài tháng trước đây, một phụ nữ đã chết ở Achham, một huyện lỵ xa xôi nằm ở phía tây của Nepal. Không có số lượng chính xác số người chết trong chòi vì không được báo cáo, nhưng người ta tin rằng hàng chục phụ nữ phải chịu đựng và con số chết hàng năm rất nhiều.
Cô gái Nepal 17 tuổi Kalpana Majhi, 17 tuổi, tâm sự, "Nỗi lo sợ lớn nhất của em là khi có kinh nguyệt, bị buộc phải ngủ trong một căn chòngoài trời." Cô sống ở Kuine, một ngôi làng nhỏ ở Tatopani ở miền trung Nepal. Cô rất ngại ngùng khi báo cho mọi người biết cô tới kỳ kinh. Cô sợ rắn, sợ cô đơn, lạnh lẽo, phải xa bạn bè người thân, và tự hỏi chính mình tại sao tôi không được ngủ trong nhà mình."

Bạn hãy tưởng tượng con, cháu, em gái bạn tuổi 14, 15, 16 bị bỏ bơ vơ ngoài chòi hoang trống hoác không vách, trên núi lạnh lẽo không ai lai vãng, bạn nghĩ sao? Các em phải tự mình đốt lửa sưởi ấm, thức ăn, quần áo, chăn mền phải đem theo, gió tuyết lạnh, và còn rắn nữa, trên cây rắn cũng có thể bò vào mà rắn ở đó rất nhiều. Có người chết vì khói xông lên từ đám lửa em thắp dưới đất để sưởi ấm. Có nơi phụ nữ sau khi sinh con phải ở ngoài chòi tới cả tháng mới được về nhà.Với điều kiện nghèo, chậm tiến và kém vệ sinh, phụ nữ ở xa thành phố không dùng băng vệ sinh cá nhân, họ dùng những mảnh vải thừa quấn vào để thấm máu rồi giặt và phơi. Khi thời gian kinh nguyệt sạch sẽ họ phải ra suối tắm cho tinh khiết mới được cho phép về nhà. Có nơi sau khi tắm suối còn phải tắm nước đái bò để tẩy uế vì bò là thần vật của đạo Hindu. Tập tục này được gọi Chhaupadi, đã bị toà án tối cao Nepal cấm hành xử vào năm 2005, nhưng truyền thống này vẫn còn tràn lan. Một trong những lý do chính đằng sau sự liên tục áp dụng truyền thống này là các cơ quan thực thi pháp luật thường thấy kinh nguyệt như là một vấn đề của gia đình tư nhân. Vì là niềm tin đạo giáo nên nó được người dân địa phương bảo vệ ,vì sợ rằng kinh nguyệt phụ nữ không tinh khiết và nếu làm trái lại, các vị thần sẽ tức giận và trừng phạt gieo tai ách đến cho họ.

Tulasi Majhi, 50 tuổi, mẹ của Kalpana nói, "Chúng tôi lớn lên đã được dạy rằng thần thánh sẽ tức giận nếu để đàn bà kinh nguyệt bước vào nhà bếp hoặc chạm vào các thành viên nam trong nhà. Chúng tôi sợ làm trái, điều xấu sẽ xảy ra nếu chúng tôi phá vỡ các quy tắc. Chúng tôi yêu con gái chúng tôi lắm nên có nhà giữ con ngoài chòi 7 ngày, 5 ngày chúng tôi đã cho nó về nhà ".

Ngoài sự sợ hãi thần thánh, một lý do quan trọng khác khiến không ai dám thay đổi luật là sự sợ hãi bị cô lập từ xã hội. "Dân làng có thể giận dữ và tuyệt giao cũng như không đến nhà chúng tôi nữ nếu chúng tôi làm ngược lại truyền thống. Chúng tôi chỉ là một cá nhân nhỏ bé, không có khả năng thách thức cả bộ tộc".

Sự chịu đựng những tục lệ truyền thống quái dị của phụ nữ Nepal còn nhiều, chưa hết đâu như tục lệ vẫn tảo hôn(kết hôn trước tuổi vị thành niên) còn áp dụng ngày nay ở nước này. Xin bạn đọc theo dõi ở kỳ tới.

Trịnh Thanh Thủy thực hiện

Lê Quang Uyển, người có trách nhiệm giữ 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia

Trong giới kinh tế tài chính, nhất là vào những năm chót của chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ai cũng biết đến Thống đốc trẻ tuổi của Ngân Hàng Quốc Gia là ông Lê Quang Uyển.

Sau khi tốt nghiệp HEC (Hautes Etudes Commerciales) tại Paris năm 1960, ông Lê Quang Uyển về Việt Nam phục vụ. Ông đã làm một thời gian ngắn làm cho Ngân Hàng Pháp Á (BFA – Banque Francaise de l’Asie). Sau đó ông Lê Quang Uyển cũng như nhiều chuyên viên trẻ khác cũng bị động viên vào quân đội và lên đến cấp bậc đại úy.
Từ quân đội ông được chuyển sang ngạch “chuyên viên Phủ Tổng Thống,” một ngạch công vụ của VNCH dành cho các chuyên viên trẻ, có học thức và nhiều tương lai. Họ được đào tạo để trở thành các nhà lãnh đạo tương lai trong ngành kinh tế, tài chính, giáo dục; các công ty của chính phủ – nhà đèn, công ty đường, Air Vietnam,… Và sau này có thể có những trách nhiệm cao cấp trong chính phủ. Ngạch này được thành lập từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm để kéo các chuyên viên giỏi phục vụ cho chính phủ VNCH.
Trong cương vị này, ông đã tham gia nhiều chuyến đi của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, trong đó có chuyên viếng thăm Manilla. Sau này ông đã được đề nghị giữ ghế thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia.
Người ta nhớ nhất về Thống Đốc Uyển là những việc sau: 
Chuyện Tín Nghĩa Ngân Hàng (TNNH hay Con gà đẻ trứng vàng), một xì-căng-đan thời VNCH 
Lúc đó Tín Nghĩa Ngân Hàng là một trong những ngân hàng có tiếng tại Việt Nam, có nhiều chi nhánh tại Sài Gòn, Chợ Lớn và tại các tỉnh (năm 1969, sau khi đậu cao học kinh tế tôi có về làm tập sự tại ngân hàng ở VN và được gởi đi nhiều chi nhánh để biết về các nghiệp vụ tài chính ngân hàng).
Ban thanh tra ngân hàng của Ngân Hàng Quốc Gia có trách nhiệm theo dõi các nghiệp vụ cho vay của mọi ngân hàng có mặt tại Việt Nam. Một người trong nhóm thanh tra có báo cáo “sơ hở” trong quy trình cho vay của Tín Nghĩa Ngân Hàng và việc này đã trở thành xì-căng-đan tài chính tại Việt Nam. Ông Nguyễn Tấn Đời, chủ tịch kiêm tổng giám đốc Tín Nghĩa Ngân Hàng đã dùng một số bộ hạ, người thân tín trong gia đình để vay các tín dụng. Ông quên rằng những việc làm này cũng khó mà qua mắt các thanh tra ngân hàng của Ngân Hàng Quốc Gia. Những người đi vay mà tài sản quá thấp làm sao có thể thế chấp để đi vay một số tín dụng khổng lồ của Tín Nghĩa Ngân Hàng. Thật ra thì ông Nguyễn Tấn Đời đã sử dụng những người này, đứng tên vay tiền cho cá nhân ông, rồi ông dùng số tiền tín dụng này để đầu tư cho cá nhân ông.
Thời đó chưa có tin học hay máy computer, nên muốn kiểm tra phải tới tận nơi và khám xét trực tiếp các hồ sơ cho vay (các sổ sách và tính toán đều làm bằng tay hoặc bằng máy NCR). Thống Đốc Uyển đã trình Tổng Thống Thiệu và thảo luận với ngành cảnh sát hình sự để giúp Ngân Hàng Quốc Gia đánh giá các hồ sơ cho vay của Tín Nghĩa Ngân Hàng.
Thống Đốc Lê Quang Uyển đợi lúc ông Nguyễn Tấn Đời đi nghỉ ở Đà Lạt, để gởi các thanh tra ngân hàng làm cuộc truy tìm các hồ sơ tín dụng gian lận của Tín Nghĩa Ngân Hàng. Các thanh tra chặn mọi cánh cửa của Tín Nghĩa Ngân Hàng ở bến Chương Dương không cho hồ sơ thoát ra ngoài. Trụ sở Tín Nghĩa Ngân Hàng không xa Ngân Hàng Quốc Gia, có lẽ độ 1,000 m và cùng ở Bến Chương Dương. Qua việc kiểm tra này, các thanh tra đã tìm thấy các hồ sơ tín dụng “dởm.” Lúc đó ông Nguyễn Tấn Đời là một tổng giám đốc ngân hàng rất mạnh, có nhiều người che chở và việc kiểm tra sổ sách của Tín Nghĩa Ngân Hàng là một kỳ công – phải được tổ chức như một chiến dịch quân sự.
Qua việc thanh tra này ông Lê Tấn Đời đã bị đưa ra tòa. Ông bị tuyên án và phải vào khám Chí Hòa. Như thế, Thống Đốc Lê Quang Uyển đã làm đúng trách nhiệm của NHQG là thanh tra chặt chẽ hệ thống ngân hàng thương mại dưới quyền ông. Qua việc này, ông đã chận đứng các lạm dụng trong ngành tài chính.
Việc giúp các chuyên gia khối kinh tế tài chính – gởi đi làm việc tại các bộ
Một khó khăn của VNCH trong những năm 1970 là thiếu ngân sách và khó tuyển mộ chuyên viên vì lương thấp. Trong kinh tế, muốn có thăng bằng ngân sách thì chính phủ sẽ bán một số công khố phiếu ra cho công chúng. Với tiền công khố phiếu, chính phủ dùng bù đắp thâm hụt ngân sách.
Ngân Hàng Quốc Gia có nhiệm vụ tham gia vào các chính sách tiền tệ và có đóng góp qua việc mua một số công khố phiếu của chính phủ. NHQG mua một số công khố phiếu và tiền lời của công khố phiếu được bỏ vào một quỹ của Ngân Hàng Quốc Gia. Thống Đốc Uyển quyết định dùng số tiền lời này, để trả lương cho nhân viên kinh tế tài chính – mà lúc đó VNCH đang rất thiếu – và cần một số lời được chia cho nhân viên của Ngân Hàng Quốc Gia. Qua việc này, ông thống đốc giúp bồi đắp vào chỗ hổng tài trợ chuyên viên, mà trước đây cơ quan USAID tài trợ nhưng ngân khoản viện trợ lại ngày càng giảm. Qua việc này, một số chuyên gia đã được gởi đi làm tại các bộ như Tài Chính, Nha Thuế Vụ hay Bộ Kế Hoạch, nói chung mọi nơi cần chuyên gia.
Ông cũng có chương trình kéo các chuyên viên tài chính ngân hàng trẻ gia nhập NHQG, gầy dựng nhân sự cho tương lai ngân hàng. Một số người trẻ, có khả năng và có tay nghề được tuyển mộ vào NHQG làm trong văn phòng thống đốc.
Ngoài việc dùng quỹ tiền lời công khố phiếu, Thống Đốc Uyển còn sử dụng Quỹ Phát Triển (QPT) Kinh tế Quốc Gia mà ông làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị (HĐQT) gởi các chuyên viên của QPT đi giúp các bộ. Quỹ Phát Triển là một chi nhánh – thành phần của NHQG được vốn của Hoa Kỳ (USAID) trợ giúp. Ngoài việc tái tài trợ các ngân hàng phát triển Việt Nam (Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, Ngân Hàng Phát Triển Nông nghiệp, SOFIDIV…) Quỹ Phát Triển Kinh Tế Quốc Gia có một số chuyên viên trẻ được gởi đi trợ giúp các Bộ Kế Hoạch, Bộ Tài Chính qua việc tham gia vào công tác xây dựng Kế Hoạch Phát Triển Hậu Chiến, nhất là sau khi Hiệp Định Paris được ký kết.
Thống Đốc Lê Quang Uyển cũng cố vấn cho Tổng Thống Thiệu chọn người trong khối kinh tế tài chính, trong đó có việc giới thiệu ông Nguyễn Văn Hảo vào Quỹ Phát Triển và sau này làm phó thủ tướng đặc trách về kinh tế tài chính. 
Giữ 16 tấn vàng cho Việt Nam
Trong những ngày chót của VNCH, Hoa Kỳ muốn VNCH đưa 16 tấn vàng gởi dự trữ tại Ngân Hàng Trung Ương tại New York (một việc làm bình thường vì đa số các nước đều có trương mục với ngân hàng FED New York). Sau khi bàn bạc, Thống Đốc Lê Quang Uyển quyết định gởi các thoi vàng qua Thụy Sĩ, tại Ngân Hàng Banque International Ressettlement – BIR ở Basle.
Theo kinh nghiệm thế giới, nhiều chính phủ Âu Châu trước đây, khi bị Cộng Sản xâm chiếm họ đã gởi vàng dự trữ tại đây để tránh chiến tranh và sau này giữ được tài sản quốc gia. Một kế hoạch đã được lập lên để chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ chứ không phải sang Hoa Kỳ. NHQG đã cho mướn một chuyến may bay để chở số vàng này qua Thụy Sĩ.
Trong lúc hỗn loạn của những ngày miền Nam sắp mất, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và máy bay được mướn chở vàng không thể đáp xuống Tân Sơn Nhất, vì vậy kế hoạch gởi vàng qua Thụy Sĩ không thực hiện được.
Vào những ngày chót, một số nhân viên ngân hàng cấp cao đều được cấp Walkie Talkie để dễ liên lạc với nhau nhằm bảo vệ tài sản cho Việt Nam. Thống Đốc Lê Quang Uyển tử thủ trong NHQG và chỉ mở cửa NHQG khi Cộng Sản mang nhiều xe tăng đến định bắn vào NHQG.
Cộng Sản lúc nào cũng phao tin đồn là cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng đi nước ngoài trong khi nhiều người cũng kể công về việc giữ số vàng này. Vậy sự thật ra sao? Bài báo sau đây của nhân chứng nói về kiểm tra vàng tại NHQG do báo Tuổi Trẻ đăng:
Bài viết của tác giả Huỳnh Bửu Sơn trên tờ Tuổi Trẻ trích đoạn như sau:
…Những ngày đầu Tháng Năm, 1975, tôi vào trình diện tại Ngân Hàng Quốc Gia ở 17 Bến Chương Dương, thủ đô Sài Gòn cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân quản Ngân hàng Quốc gia là chờ phân công tác. Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.
Lần kiểm kê cuối cùng… Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.
Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn.
Đại diện Ban Quân Quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt – chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc Gia.
Số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân Hàng Quốc Gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi – Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào. 
Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.
Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau… Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán (computer) của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho. Kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền và vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách điện toán từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia…
Tác giả Huỳnh Bửu Sơn cũng liệt kê từng tủ và từng hầm kho tàng. Và cuối bài viết, ông ghi: “Tổng cộng: 1.234 thoi vàng.”
Qua việc bảo tồn tài sản quốc gia, việc này cho thấy là các công chức của NHQG và người đứng đầu là Thống Đốc Lê Quang Uyển đã làm việc một cách nghiêm túc – với tinh thần trách nhiệm của một công chức. Đó là niềm hãnh diện cho VNCH, không bỏ chạy (tình thần trách nhiệm) và rất trung thực. Thống Đốc Lê Quang Uyển là một tấm gương soi sáng cho thế hệ trẻ – cho tinh thần trách nhiệm của công chức miền Nam.
Thống Đốc Lê Quang Uyển và tù cải tạo 
Ông Uyển, cũng như nhiều người khác, đã phải đi cải tạo trên 3 năm trong Nam (1975-1979). Trái với ông phó thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia là ông Dõng, ông Uyển không trình diện liền khi Cộng Sản kêu gọi thành phần nội các ra trình diện học tập (họ không biết là thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia có hàm bộ trưởng.) Ông Phó Thống Đốc Dõng đã ra trình diện và bị chết trong trại tù Thanh Cẩm, tỉnh Thanh Hóa. (Tôi còn gặp bà Dõng tại Sài Gòn sau khi bà bị trục xuất ra khỏi nhà tại NHQG, khi tôi đi cải tạo về vào năm 1979).
Ông Uyển là một sĩ quan VNCH cấp bậc đại úy và đã ra trình diện khi Cộng Sản gọi các sĩ quan cấp đại úy trình diện. Ông bị đi tù cải tạo 3 năm.
Ông Lê Quang Uyển đã đi Pháp cùng vợ vì bà vợ, chị Geneviève LyLap (một huynh trưởng nữ hướng đạo hệ Scout et Guide de France, bà là công dân Pháp và là nhân viên Tòa Đại Sứ Pháp tại Sài Gòn).
Năm 1981, ông Uyển tham gia vào ngân hàng Banque Indosuez. Ông được gởi làm giám đốc chi nhánh tại Saudi Arabia và ở đây đến 1990. Ông đứng đầu chi nhánh “Al BankAl Saudi Al Fransi” (Saudi French Bank), ngân hàng duy nhất của Pháp tại Ả Rập Saoudi. Sau 1990, ông Lê Quang Uyển được phái đi làm cho nhiều chi nhánh của ngân hàng Indosuez tại nhiều nước khác nhau.
Ông Lê Quang Uyển đã về hưu tại Chiang Mai, Thái Lan. Ông là hình ảnh một công chức VNCH có tư cách và có tinh thần trách nhiệm rất cao. 
TS. Đinh Xuân Quân)