Sunday, April 8, 2012

Tạm Biệt Rừng Hoa


MỘT

Chiếc thiết vận xa T- 54 như giận dữ gầm thét nghiến mặt đường khi đổ xuống con dốc đầu xã Hoa Lâm, rồi ngưng lại trước trụ sở công an. Người hạ sĩ quan vội vã nhảy xuống cùng với anh bộ đội cận vệ bước mau vào trong văn phòng, rồi chỉ sau một khoảnh khắc lại hấp tấp đi ra, nét mặt có vẻ nghiêm trọng khác thưởng. Trên xe, người xạ thủ vẫn lăm lăm đặt tay trên khẩu đại liên, đôi mắt luôn ngó chừng tứ phía. Hai người công an từ trong cũng bước ra, đăm chiêu nhìn theo chiếc xe bọc sắt quay đầu về hướng huyện  Đông Doanh cuốn theo lớp bụi đường mờ mịt.

Từ văn phòng xã, tiếng loa phóng thanh liên tục cho hát những bản nhạc hùng 'giải phóng', thỉnh thoảng lại xen kẽ bằng những thông báo về chính trị hoặc an ninh. Đã hơn hai tuần nay, dân chúng Hoa Lâm phần nào quen tai với chương trình thông tin tuyên truyền kiểu mới này. Những bàng hoàng kinh hãi ban đầu đã dần lắng dịu. Ai nấy bảo nhau ráng vui chịu số phận đắng cay của những kẻ chiến bại, để rồi lầm lũi trở lại kế sinh nhai cũ bên luống rau vườn cà, sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro khó khăn của tình thế mới.

Hoa Lâm cũng là một họ đạo Thiên Chúa giáo toàn tòng. Dân số có đến ngót năm ngàn nhân danh, được đưa tới lập nghiệp tại vùng cao nguyên này sau dịp chia đôi đất nước 1954. Dĩ nhiên họ là những thành phần đối lập hàng đầu với chủ nghĩa Cộng sản vô thần. Bỏ đất Bắc ra đi tay trắng cũng chỉ vì tiên vàn muốn được tự do giữ đạo. Hai mươi mốt năm trời ròng rã, họ vẫn đinh ninh rồi sẽ có ngày hết giặc Cộng quấy nhiễu; nhưng tình thế cứ càng ngày càng tệ hại hơn, để rồi hôm nay cái ách ghê gớm ngày cũ lại vô tình được quàng lên cố lên vai từng người.

Vào khoảng hơn một tháng trước đây, chính quyền tỉnh trên Đà Lạt đã gấp rút di tản về Sài Gòn qua ngả Phan Rang. Dân Hoa Lâm cũng vội vã kéo ra mấy tỉnh miền duyên hải kế cận để thuê mướn ghe tàu xuôi nam, bởi trục lộ giao thông đường bộ bị cắt đứt. Cực nhọc vất vả tột độ, nhưng đa số cũng về tới được vùng thủ đô để tạm trú nơi gia đình thân nhân hay tại những trại tiếp cư. Lúc đó ai nấy đều tin tưởng ít ra mình cũng may mắn thoát bàn tay quân địch. Thế rồi, bao nhiêu hy vọng với ước mơ đều tiêu tan cả với ngày ba mươi tháng tư kinh hoàng. Hết đường chạy, họ đành quay về thôn xóm cũ.

Tường cố ngồi dậy để điền cho hết bản kê khai lý lịch cá nhân và hồ sơ hộ khẩu mới. Cơn cảm sốt đã hành chàng từ hai hôm nay khiến bàn tay còn như run rẩy trên trang giấy màu ngà cũ kỹ. Vừa viết, tâm trí Tường vừa như còn xáo trộn với những biến chuyển mới đây. Trưa nay, căn gác lửng chàng ở xem chừng nóng nực khác thường. Bầu trời không thấy một gợn mây. Gió như im bặt. Cả những tiếng chim kêu thường ngày nơi đầu hiên cũng biến mất.

Trong mỏi mệt rã rời, Tường bỗng thấy những hình ảnh xưa cứ như muốn khơi dậy trong đầu óc. Hai năm trước, vừa đậu xong bốn năm văn khoa từ viện đại học Đà Lạt thì chàng chịu tang thân mẫu. Thế là, theo lời đề nghị của ông chú ruột, chàng đã dọn về Hoa Lâm ở chung cho có chút hơi ấm gia đình. Căn nhà tại ấp Du Sinh được bán vội cho chàng có chút tiền xoay sở. May mắn cuối mùa hè năm đó chàng đã xin được chân dạy Việt văn cho cả bốn lớp trung học đệ nhất cấp của xã Hoa Lâm. Dĩ nhiên trường này đã do công lao cố gắng của các Linh mục phụ trách giáo xứ mong mở ra cho tương lai bọn trẻ nơi đây. Cái tên trung học tư thục Vinh sơn Lam đã mỗi ngày mỗi thêm nổi tiếng toàn quận Đông Doanh.

Nhờ được bầu vào ban thư ký ấp Xuân Thạnh trong xã, Tường được tạm hoãn trình diện nhập ngũ. Mấy đứa bạn cũ từ trường sĩ quan Thủ Đức thơ về thăm cứ tỏ ra phen bì với hoàn cảnh may mắn của chàng. Mà thật sự càng ngày Tường càng bỡ ngỡ về trường hợp hiếm có của chính mình. Đôi lúc chàng cũng thấy như hổ thẹn vì không xông pha chiến trận để bảo vệ đất nước như bao lớp trai đương thời; nhưng rồi, cái sứ mạng góp công giáo dục nơi học đường đã phần nào cho phép Tường được thanh thản với lương tâm. Dĩ nhiên cái chức vụ nhẹ nhàng trong ban thư ký thôn ấp cũng kéo lôi chàng vào một trách nhiệm địa phương, dẫu rằng cấp bậc hành chánh chỉ thuộc phần hạ tầng bé nhỏ. Thêm vào đó, Tường cũng để thật nhiều thời giờ cho những sinh hoạt tôn giáo của xứ đạo. Đặc biệt chàng đã gây dựng nên và điều khiển ca đoàn giới trẻ từ hơn một năm nay.

Năm ngày học tập chính trị trên huyện tuần trước đã đủ khiến đầu óc Tường căng thẳng và toàn thân nhức nhối. Cũng may, chàng được phê là luôn nhã nhặn tử tế với mọi người trong những ngày tháng của thời 'ngụy', nên không gặp điều chi phiền toái nơi chính quyền mới. Tường ra về mà lòng xót xa khi thấy ông cựu xã trưởng cùng hai ông trưởng ấp bị đưa đi công trường lao động. Chả biết công an kết tội ra sao, nhưng dư luận thì có vẻ bi quan cho họ lắm.

Bỏ bút xuống, Tường bất giác thở đài, đưa tay lên gãi cằm rồi lơ đãng nhìn qua khuôn cửa sổ hướng xuống phần thung lũng chạy dài tới tận bờ sông Đa Nhim. Ruộng đồng như gợi vẻ buồn thảm khác thường trước mắt chàng. Khung trời cũng đượm vẻ ảm đạm kể từ ngày đất bằng nổi sóng để tạo nên cảnh tang thương ngẫu lục hôm nay. Bầu khí lúc nào cũng xem chừng căng thẳng theo với nhịp thở nặng nề của người dân quê. Qua những tối học tập đường lối mới của nhà nước, bà con Hoa Lâm đã bắt đầu kháoláo nhau về chính sách làm ăn tập thể,  theo tổ chức hợp tác xã sắp được áp dụng nay mai. Tất cả sẽ do chính quyền chỉ huy. Tự do cá nhân và quyền tư hữu sẽ đi dần vào quá khứ. Để rồi bụng đói là chân phải bò, phải tùng phục mệnh lệnh từ trên. Bất tuân hoặc đối kháng sẽ chỉ có nghĩa là tự chuốc lấy thiệt thòi, thua lỗ.

Tường nghe nặng trĩu hai bên thái dương, qua những mẩu suy tư vụn ngổn ngang xoáy mòn tâm trí Trước đây, tuy chưa một lần dám có tham vọng đắp xây sự nghiệp cho thật huy hoàng, nhưng từ thâm tâm chàng cũng ít nhiều còn nghĩ tới một tương lai tương đối thoải mái cho những lớp người trẻ có được chút học thức như mình. Ngờ đâu bao nhiêu mơ ước ngày cũ nay hoá thành giấc mộng nam kha, và rồi vũ trụ vần xoay đưa tới một hoàn cảnh cùng với một khung trời vô cùng tối đen trước mắt. Khổ nỗi, từ lâu trong dạ trong lòng, chàng đã ôm ấp cái ý thức hệ hoàn toàn đối nghịch với con đường Cộng sản. Thế là tất cả trở nên tắc nghẽn, cùng đường. Càng nghĩ tới chỉ càng thêm thất vọng, đớn đau. Xem chừng ngòi bút thi hào Nguyễn Du một lần nữa lại được ứng dụng cho thời buổi hôm nay : Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Không đớn đau sao được khi người dân chả còn tìm đâu ra niềm vui, để rồi từ nay đành ngậm quả bồ hòn làm ngọt !

 Ngồi tựa lưng vào chiếc ghế dựa bằng vải gai màu hạt giẻ, Tường lim dim cặp mắt mặc cho ký ức lôi kéo tâm tư về quãng đời dĩ vãng. Đúng rồi, hai mươi mốt năm trời trôi qua, kể từ ngày còn là đứa bé bốn tuổi non nớt theo bố mẹ bỏ xứ Bắc vượt tuyến vào Nam, chàng đã lớn lên trong bầu khí gia đình cũng như xã hội luôn trái ngược lý thuyết Mác xít vô thần. Mọi sinh hoạt lớn nhỏ đều xoay quanh khung cảnh họ đạo, nhà thờ. Sau mấy năm ngược xuôi theo đơn vị quân đội của bố chàng di chuyển đó đây, gia đình Tường cuối cùng đã quyết định dừng bước để định cư tại giáo xứ Du Sinh thuộc ngoại ô thị xã Đà Lạt, khi ông thân sinh đến hạn mãn lính. Cái lon Thượng sĩ không để lại của chìm của nổi gì nên gia cảnh cứ mãi thanh bạch đạm bạc, dẫu ông bà chỉ có ba mặt con, hai trai một gái. Tuy  nhiên cuộc sống gia đình xem chừng lúc nào cũng đầm ấm an vui. Dĩ nhiên hai ông bà dù bận bịu công việc làm ăn cách mấy cũng phải kinh lễ tươm tất hằng ngày. Mấy đoàn hội trong giáo xứ luôn tích cực tham gia. Chính trong cái khung cảnh đạo hạnh của gia cảnh đó, Tường đã hăm hở đi dự kỳ tuyển sinh để rồi được nhận vào chủng viện Simon Hoà của giáo phận Đà Lạt, lúc đó còn tạm đặt trụ sở bên miệt Chi Lăng kế hồ Than Thở.

Lần thứ nhất chính thức xa nhà, tuy mới mười hai tuổi đầu và lại là trai út trong gia đình, nhưng Tường lúc nào cũng tỏ ra chững chạc vững vàng hơn rất nhiều bạn bè khác. Bao lần chàng đã được khen thưởng cả về mặt học lực lẫn hạnh kiểm. Bây giờ ngồi nhớ lại, Tường vẫn tin rằng những chuyện may mắn tốt đẹp ấy chàng đã thừa hưởng được từ lối sống cần cù gương mẫu của bố. Tường còn nhớ rõ những lần ông cụ ôn tồn nhắc nhở con cái luôn phải nuôi dưỡng và bảo vệ cái nghị lực nơi tâm trí, để sẵn sàng phấn đấu trên đời. Cụ thể, việc học hành phải được từng đứa con qúy trọng và lưu tâm hàng đầu. Chả thế mà người anh cả của Tường đã cặm cụi học để nhập cho bằng được trường Chính Trị Kinh Doanh. Xui làm sao, gần tới cuối niên khoá thứ hai thì ông anh đó bị tử thương trong một tai nạn xe trên đường tới trường. Cũng nhờ cái nghị lực phi thường của ông thân sinh mà gia anh Tường vẫn giữ được nếp sống bình thản thường ngày, tuy nhiên sức khoẻ mẹ chàng thì xem chừng sa sút trông thấy. Tuổi về già gặp phải những chuyện não lòng tương tự, dễ gì mấy ai tránh khỏi được những xáo trộn lớn lao nơi tâm tư !

Biến cố đó đương nhiên đã gây xao xuyến phần nào cho Tường, nhưng niềm vui tôn giáo cộng với sự khích lệ liên tục của gia đình vẫn giúp chàng được dứt khoát tiến lên trong tiếng gọi cao vời của lý tưởng. Trí óc còn mơ hồ về cái ý nghĩa của đời phục vụ dấn thân, bởi chưa hiểu được rõ cho lắm qua mọi khía cạnh, những ngày đêm Tường như vẫn nghe âm vang một nỗi vui thầm kín, xa xôi.

Cuộc sống nơi chủng viện tiếp tục gây phấn khởi cho Tường ở những năm kế tiếp, nhất là khi di chuyển qua cơ sở mới bên ấp Đa Thiện, với phòng ốc khang trang và sân chơi thật là thoải mái. Cho tới kỳ nghỉ hè cuối năm đệ Tứ, chàng lại đối diện với một hình thức xáo trộn khác liên hệ tới gia đình. Số là mùa hè đó người chị đến tuổi lập gia thất đã làm lễ thành hôn để theo chồng; và thế là thêm một cánh chim xa lìa tổ ấm. Ngày tựu trường, Tường đã bất ngờ xúc động tưởng chừng chân đi không rời, để rồi cũng lại phải nhờ tới những cử chỉ và lời lẽ thật cương quyết và mạnh mẽ của ông thân sinh mới khiến chàng lấy lại được chút can đảm và bình thản trước đây.

Nỗi niềm thương bố mẹ như gậm nhấm tâm can Tường chẳng giây phút nào nguôi. Bạn bè đa số đều nhận ra những thay đổi khác thường nơi chàng, và dĩ nhiên chuyện học hành cũng bị ảnh hưởng lây. Tin vào bàn tay nhiệm mầu của Thiên Chúa, Tường dành thật nhiều giờ rảnh để cầu nguyện. Chưa một lần chàng thấy chán ghét chủng viện, nhưng cái lý tưởng ơn thiên triệu như bất ngờ bị nhiều áng mây đen vây bọc. Chàng hy vọng nguồn ơn thần thiêng sẽ can thiệp để đem tới thêm ánh sáng, cho bước đường mình đi bớt mịt mù sương khói và lòng trí được thênh thang nhẹ nhõm. Chiều hôm hay sớm mai Tường đều thầm ước cho bố mẹ được sức khoẻ dồi dào và tâm hồn an vui trong lúc tuổi già xế bóng. Chàng không muốn nghĩ tới cái khuôn mẫu và lề thói hiếu đễ của người con trai duy nhất trong gia đình theo tục lệ cổ thời đông phương, với cái bổn phận nối dõi tông đường giòng họ. Mà ngay cả cái mục phụng dưỡng cha mẹ già, Tường như cũng chưa một lần nghiêm chỉnh đặt nên vấn đề. Truyền thống suy tư Thiên Chúa giáo vẫn tiềm tàng nhắn bảo ơn quan phòng từ trên cao sẽ định liệu tất cả.

Nhưng rồi cái tình trạng hoang mang mơ hồ đó đã phải đi tới một biến chuyển rõ ràng dứt khoát khi Tường được tin cấp báo ông thân sinh hấp hối tại dân y viện thị xã, sau mấy ngày cảm sốt thương hàn kịch liệt. Cuối cùng tử thần đã cướp đi sinh mạng của ông giữa tiếng gào khóc tuyệt vọng của cả gia đình. Dĩ nhiên mẹ chàng tựa hồ chết lên chết xuống. Bà chị từ Bảo Lộc lên cũng chả an ủi mẹ được chi hơn, mà chỉ góp thêm tiếng khóc cho hoàn cảnh càng tăng vẻ não nề.

Thế là Tường phải bỏ chủng viện về nhà gần cả tháng trời trước ngày kết thúc niên học. Ngày ra đi hôm đó nào ngờ đã trở thành buổi chia tay vĩnh viễn với bạn bè. Năm năm trời bao nhiêu là tình là nghĩa, nhưng định mệnh như đã khiến chàng vô phương níu kéo. Đám táng ông cụ vô tình tạo nên một khoảng trống sâu thẳm trong gia đình, để rồi dù muốn dù không, đã cột chân Tường ở lại nhà. Ban giám đốc chủng viện xót xa nuối tiếc lắm, nhưng tất cả đành chịu bó tay và hết lời an ủi chàng, rồi khuyên cứ vững tin vào đường lối Thiên Chúa, mong rằng trong tương lai chàng sẽ lại có nhiều cơ hội để góp phần phục vụ tha nhân qua những hình thức khác.

Tư tưởng đó ít nhiều đã vỗ về để làm dịu đi những xao xuyến băn khoán nơi tâm hồn chàng. Dần dà Tường đã nhận ra những hoạch định của con người rất nhiều khi không nằm trong chương trình Chúa. Trong trường hợp này, biết đâu những năm tháng được huấn luyện học hỏi nơi chủng viện là để tạo căn bản và vốn liếng tinh thần mà mai sau chàng sẽ đem ra xử dụng vào những sinh hoạt tôn giáo, với cương vị một giáo dân. Đường hướng mới của Giáo hội, nhất là với Công đồng Vatican II. gần đây mà chàng đã từng được nghe cắt nghĩa, phần nào tạo nên chút tự tin và phấn chấn. Cũng chính vì thế, sau vài tháng trời, chàng đã tham gia vào đoàn Thanh sinh công của nhà thờ Du Sinh bằng tất cả khả năng và nhiệt huyết.

Mùa thu năm đó, Tường ghi tên xin học tiếp tại trường trung học Trí Đức của giáo xứ Chính toà Đà Lạt, đồng thời nhận kèm thêm một số trẻ học tại tư gia. Trong cái thế phải sớm tự lập đó, cộng thêm cái di sản nghị lực của ông thân sinh, Tường như mau lướt qua được thời điểm đen tối để bắt đầu nhìn thấy những tia sáng thành công trong đời.

Hai năm vèo qua cho chàng cái mảnh bằng Tú tài không mấy khó khăn. Cả hai trường Chính trị Xã hội lẫn Quản trị Kinh doanh, trước cùng thuộc phân một phân khoa gốc bên viện Đại học, đã có lúc nên như một cám dỗ mời mọc để Tường nối tiếp hướng đi bỏ dở của người anh. Nhưng rồi chàng đã nhất định chọn ngành văn khoa, với một ước vọng mơ hồ sau này nếu không được thoải mái đi vào con đường giáo dục, thì cũng có thể sống phần nào với cây bút trong tay. Dĩ nhiên hướng đi đó cũng được lồng khung trong điều mong muốn sẽ có cơ hội và khả nàng săn sóc chăm nom cho thân mẫu mỗi ngày mỗi như gần đất xa trời.

Thật trớ trêu và cay đắng, vừa lãnh bằng tốt nghiệp Cử nhân được dăm tuần lễ thì chàng lại bất ngờ chịu tang mẹ. Hình như đất trời muốn những cay nghiệt lớn lao nhất sớm đến cho Tường để chàng mau vững chãi trưởng thành. Thế là dầu muốn dầu không, chàng cũng phải sớm một thân vào đời, đôi vai gánh vác trọn vẹn tương lai và thân thế lấy một mình mình. Hành trang chỉ còn là cái ý chí nội tại đã được tôi luyện trong những năm gần đây. Mới hăm ba tuổi đầu kể như còn quá non kinh nghiệm để xông xáo chốn trường đời. Cái mảnh bằng cử nhân nghe chừng xôm tụ thật đấy, nhưng chẳng bảo đảm được gì cho một tương lai ngon lành vững chắc. Có thể rồi chả mấy nữa chính phủ lại gửi giấy nhập ngũ theo đoàn quân trừ bị, lúc nào như cũng thiếu hụt giữa thới đất nước loạn ly.

Khi ông chú đề nghị chàng về Hoa Lâm sống chung và nộp đơn xin dạy học thì Tường cũng chỉ biết vâng dạ để chiều ý. Tâm tư chàng như còn hoang mang bối rối, thôi đành phó mặc cho định mệnh đẩy đưa sắp xếp. Ngày chàng được hẹn để về gặp Linh mục Hiệu trưởng cũng như lúc ngồi trả lời những câu phỏng vấn liên hệ, Tường vẫn không tỏ ra chút chi là hăng say, hứng khởi. Nhưng rồi Hoa Lâm cũng đã trở thành quê hương thứ hai của chàng, không hẹn mà hò, như đã từng có duyên có nợ từ ngàn xưa.

Căn gác lửng của nhà ông chú đã tạo lại bầu khí ấm cúng cho chàng trong những ngày tháng đầu tiên thực sự đi vào cái nghề gõ đầu trẻ. Cũng chính nhờ cái căn gác trọ riêng biệt đó mà chàng dành được những giây phút yên tĩnh cần thiết để dọn và chấm bài. Lũ trẻ năm sáu đứa trong nhà lúc nào cũng đùa phá như giặc nhờ vậy đã không trở thành cơn ác mộng cho Tường. Dĩ nhiên ngoài những khoảng thời gian cần làm việc riêng tư như thế, chàng rất gần gũi để vui đùa với lũ cháu. Bởi gia đình xưa vốn đơn chiếc, chàng lúc này bỗng như thấy được bù lại phần nào. Những lúc rảnh rỗi, chàng cũng thích theo chú thím ra học cách chăm sóc những mảnh vườn rau trái, những nương bắp luống khoai.

Vận may mắn còn đến với Tường khi ông chú tình cờ nảy ý định muốn chàng ứng cử vào ban thư ký ấp. Qua cái dáng dấp thư sinh và cung cách hoà nhã của chàng, bà con lối xóm đã sớm có cảm tình và hầu hết dồn phiếu cho chàng trúng cử. Tuy đây chỉ là một công vụ bán phần, nhưng Tường đã có đủ điều kiện để tạm hoãn việc nhập ngũ. Thế là cái nghiệp gõ đầu trẻ vô tình được lôi kéo vào chỗ chuyên môn, chính thức.

Bởi yêu nghề, lại hết tâm cố gắng chu toàn bổn phận, Tường đã chả mấy mà được mới giới khen ngợi. Bọn học trò thì lên tinh thần ra mặt khi nhận ra thày giáo Việt văn mới trổi vượt hẳn ông thày cũ có lẽ vì hơi luống tuổi nên dạy học đã khô khan lại hay gắt gỏng nổi nóng. Thật ra, trong những tuần lễ đầu, chàng đã phải hết sức đắn đo để làm sao dung hoà được giữa hai thái cực của quá nghiêm khắc và quá dễ dãi. Bọn trẻ thì ở đâu cũng gần như nhau, hễ thấy thày hơi lơ là buông thả, là y như muốn lợi dụng để lên nước, để than vãn, để đòi hỏi được bớt học thêm chơi, và từ đó chúng sẽ bắt đầu lờn mặt mà coi thường kỷ cương luật lệ. Với Tường, đắn đo cẩn thận cũng là để dần dà trình bày cho bọn trẻ biết những chỗ lợi và hại, cũng như sự khác biệt của hai thái độ đúng đắn hoặc thiếu sót nơi lớp học. Chính cái phương pháp tập cho học sinh tự ý thức đường lối phải trái đó đã vô hình chung giúp chàng làm chủ được tình thế ngay từ đầu. Dĩ nhiên ban giám đốc trường vô cùng thán phục, và nhìn chàng như một ví dụ gương mẫu, điển hình.

Hơn ai hết, Tường đã biết rõ về những thành công và may mắn sớm sủa đó đang mở rộng thêm cho thênh thang bước đường tiến thân của đời mình. Tuy nhiên, chàng vẫn đinh ninh tất cả đều là do ân huệ trời cao. Trước sau, chàng luôn cần giữ thái độ khiêm tốn, nhún nhường. Những lời khen lao của cha Hiệu trưởng được chàng đón nhận như những khích lệ ủi an để mình cố gắng thăng tiến chức nghiệp hơn, giữa những ngày tháng vừa khởi sự làm 'lính mới'. Quan trọng hơn cả là thái độ lịch thiệp kính trọng các bạn đồng nghiệp khác, nhất là những kẻ đã thâm niên trong nghề. Không một lần chàng dám lên tiếng phê bình khích bác bất cứ ai.

Thế là chỉ trong vòng ba tháng đầu, sự hiện diện của Tường đã phần nào thay đổi bầu khí trường Vinh Sơn Lam. Và rồi, tiếng lành đồn xa tiếng dữ đồn xa, dân chúng cả xứ Hoa Lâm đã bắt đầu để ý và  kháo láo về ông thày trẻ mới về dạy học. Dĩ nhiên một số con gái thuộc loại tân tiến ưa tò mò đã rủ nhau tìm hiểu về chàng. Và cũng đương nhiên Tường chưa một lần dám để thời giờ mà 'chia trí lo ra'. Xứ đạo vẫn còn giống như một người bạn mới quen, để chàng cần thêm nhiều năm tháng đổi trao đối thoại mà hiểu và biết nhau hơn. Rồi thẳm sâu nơi lòng trí nữa, Tường nào đâu đã hết những bàng hoàng xúc động bởi bao biến cố gia đình cũng như bản thân....

Hai năm trời qua đi tựa giấc mơ. Chuỗi thời gian êm đềm đó lại càng trở nên ý nghĩa giá trị khi chúng phải chấm dứt bởi cái biến cố đổi đời sầu tủi, và rồi kế tiếp là những tháng ngày đen tối đang làm biến thay toàn diện cuộc sống.

Vừa gấp tờ kê khai hộ khẩu lại thì Tường nghe tiếng ông chú từ dưới nhà vọng lên :

- Tường thấy người thế nào  ? Xem chừng trời hôm nay nắng gắt, nên xuống nhà nằm nghỉ chắc mát hơn. Nếu không thấy bớt, để chú cho mời ông y tá trưởng chiều nay lại xem mạch.

Tường xoay người bước nhẹ xuống cầu thang đáp vội :

- Cảm ơn chú đõ rồi. Nghỉ một hai bữa nữa là cháu khoẻ lại ngay mà  !

Rồi đưa tay xoa trán, Tường tiếp : Vâng, trưa nay cơ chừng nóng hơn thường lệ. Ngồi điền có mấy trang lý lịch mà mồ hôi toát ướt cả lưng áo. Mà chả biết rồi đây sẽ còn phải kê khai cái màn lý lịch này bao nhiêu phen nữa !

Bỏ tách trà xuống, ông Bình liếc nhìn Tường rồi cất giọng ngao ngán :

- Đúng đấy. Cứ cái ngữ học tập rồi lại kê khai thế này thì dân chúng chả còn thời giờ nghỉ ngơi vào đâu nữa. Không hiểu mấy ông lãnh tụ Đảng còn định giở trò chi mới để hành mình nữa đây  !

Sau một lúc im lặng, ông đứng phắt dậy nói nhanh :

- Nhưng thôi, đèn tắt nên mình phải lụy dầu. Tường khai xong chưa để tối nay chú mang đi nộp nhân buổi họp thôn về kế hoạch hợp tác xã ruộng đất toàn huyện  ? Để cho thằng Hồng thằng Đạt nó khai e loạng quạng lắm, sợ rồi phải làm lại thật mất công. Tường nên ra nằm nghỉ trên chiếc ghế bố bên cửa sổ kia cho khoẻ. Bây giờ chú đem thêm ít phân hoá học ra bón cho mấy luống cải bên vườn. Chắc thím và lũ nhóc chút nữa sẽ về sớm.

Lúc Tường thấy cặp mắt lim dim như chớm thiu thiu ngủ thì từ phía ngoài cửa sổ bỗng có tiếng quát tháo om sòm lẫn với giọng khóc thút thít của đàn bà. Vội nhỏm dậy và nhíu mắt ngó ra con lộ trải nhựa trước nhà, Tường thấy rõ một thanh niên bị trói cánh khỉ bằng giây thừng đang được mấy người công an điệu lên trụ sở xã, vừa đi vừa mắng :

- Chồng cô theo bọn ngụy phản động, có chứng cớ rành rành. Đâu còn oan với ức gì mà khóc với lóc. Lên xã mà nghe chồng cô biện hộ. Đừng hỏi han chúng tôi chi cho rắc rối ! 

Thôi rồi lại cái chuyện bắt bớ dằn mặt như tuần trước. Thương hại vợ chồng anh chị Hoạt hiền lành là thế, mà lúc này gặp tai vạ. Chả biết anh có thực sự tham gia chút hoạt động chống Cộng nào không, hay chỉ là bị ghen ghét vu oan. Có điều mỗi biến cố tương tự là mỗi lần xôn xao không ít trong thôn xóm. Người ta thấy tội nghiệp, nhưng đa số đều khâm phục những kẻ dám can đảm ra mặt chống lại bọn áp bức xâm lăng.

Tường bỗng nghe như nghẹn nơi cổ họng. Hơi thở chàng như nặng nề, đứt quãng. Phải rồi, với xứ đạo Hoa Lâm toàn tòng Công giáo, Cộng sản đã coi đây như một lực lượng chống đối từ lâu. Địa bàn hoạt động du kích cũng như địch vận trước đây của họ tại vùng Đông Doanh này cũng chỉ vì cái gai Hoa Lâm mà trở nên khó khăn hạn chế. Bây giờ tất cả nằm trong tay họ, làm sao Cộng sản đã quên được những chuyện cũ để mà thân thiện và chiều chuộng đám người thù nghịch này  ! Thành ra, dẫu chưa bắt đầu kế hoạch trả thù thì họ cũng phải ra tay đánh phủ đầu trước để dằn mặt những thành phần cứng đầu hay nguy hiểm khác. Hoạt hôm nay có thể là một trong những con dê tế thần tiên khởi cho một chương trình bắt bớ dài hạn, ngoài cái quyết định đưa lớp người cộng tác mật thiết với chế độ cũ đi học tập cải tạo công khai. Tường nghĩ người Cộng sản đã thừa hiểu rằng không có lấy mảy may chút hy vọng nào để sửa cải đầu óc của những đám người này, cũng như chẳng mong họ học tập thêm được gì nơi chế độ mới. Phải chăng chỉ là một hình thức đầy đọa và làm nhục cho bõ ghét  ?

Tường xót xa nhìn theo cho đến lúc Hoạt mất hút về phía con dốc đầu xã. Bất giác chàng ngước mắt lên khoảng trời xanh thăm thẳm ngoài khung cửa sổ, mông lung nghĩ tới bóng dáng của một đấng Thượng Đế toàn năng và quyền uy mà chàng tin rằng lúc nào cũng chăm sóc để ý tới đám nhân trần lắm khổ đau và đầy yếu đuối này. Thiên Chúa từ bi của niềm tin trong đầu chàng nhất định đang phải theo dõi mới chuyện hiện xảy ra. Phải chăng ngài muốn dùng cảnh vật đổi sao dời này để thử thách đoàn con dương  thế, hay thực sự ngài đang giận dữ trừng phạt vì những sa đọa tội lỗi của một số nào đó  ? Tường miên man suy nghĩ, nửa hoang mang, nửa nghẹn ngào, mãi tới lúc có tiếng người lao xao từ phía cửa sau nhà vọng lên, chàng mới như chợt tỉnh. Nhìn ra ngoài, Tường thấy ngọn tháp giáo đường bỗng dưng vừa trở thành biểu tượng của những thách đố ngạo nghễ, vừa khơi lên những nghi vấn vu vơ trong hồn. 

HAI


Lúc Dung mở cửa bước vào thì phòng họp đã gần như đầy đủ các chị em thuộc đoàn Con Đức Mẹ xứ Hoa Lâm. Sau một tháng gián đoạn vì biến cố đổi thay lớn lao của đất nước, cha chính xứ kiêm linh hướng đoàn lại kêu gọi các chị em tái sinh hoạt như cũ, với chương trình họp mỗi chủ nhật đầu tháng như hôm nay. Ai nấy vui mừng gặp lại nhau, ríu rít trò truyện trước giờ khai mạc. Hâu hết đã biết tin chị đoàn trưởng cùng gia đình ở lại Sài Gòn sau chuyến chạy loạn tháng tư. Chị thủ quỹ thì được kháo láo rằng đã xuống ghe với thân nhân từ Phước Tỉnh để lên tàu Mỹ đi ngoại quốc.

Tuy cuộc sống xóm thôn cũng như xứ đạo đã trở lại bình thường được hơn cả tháng nay rồi, nhưng trên khuôn mặt của đa số đoàn viên như còn phảng phất vẻ ưu tư : các chị em xem chừng vẫn hốt hoảng với chuyện cũ và lo âu về cuộc sống mới đang tới. Ngay chính Dung cũng rơm rớm nước mắt khi hàn huyên cùng mấy cô bạn bên cạnh. Chỉ kịp kể sơ sơ về chuyến di tản vào Sài Gòn của gia dình, nhưng rồi từng chi tiết đã vô tình xuất hiện lại rõ mồn một trong tâm tư nàng. Sợ hơn cả là lúc thuê thuyền đánh cá từ Bình Tuy theo ven biển vào Vũng Tàu, bởi quốc lộ số 1 bị cắt đứt lâu ngày tại khu Rừng Lá gần Long Khánh, chiếc thuyền quá nhỏ mà có tới gần bốn mươi mạng người chen chúc nên mấy phen suýt bị lật.

Dung ngó tứ phía toan tìm Hoa để cùng ôn lại câu chuyện vượt biển hãi hùng ngày đó, vì gia đình cô bạn này cũng có mặt trên thuyền với nhà nàng, thì bỗng cha xứ mở cửa bước vào khiến mọi người  ngưng chuyện vãn và đứng cả lên. Cha Định tỏ vẻ hân hoan vì được gặp lại các đoàn viên hầu như còn khá đầy đủ, nhưng cha cũng không giấu nổi nét đăm chiêu tư lự mới, với hai quầng mắt như sâu hơn sau cặp kính gọng đồi mồi cũ kỹ.

Phòng họp tuy không lớn lắm, nhưng vì một bên tường được đào sát vào phần núi nằm ngay dưới hai tầng nhà xứ, nên bầu khí lúc nào cũng như mát dịu. Nắng chói chan hắt qua hai cửa sổ có chấn song từ phía trái tạo thêm một khung cảnh ấm cúng, trịnh trọng. Cây thánh giá mạ bạc khá lớn treo cao trên tường như rực sáng hơn mọi khi. Trước mặt các đoàn viên, tượng Đức Mẹ Ban Ơn Lành với vẻ mặt thật hiền từ hôm nay xem chừng cũng sống động hơn giữa hai ngọn nến lung linh và đôi bình cúc vạn thọ tươi thắm.

Sau khi mời tất cả nghiêm chỉnh hát kinh khai mạc, cha xứ kéo ghế ngồi xuống đối diện với các chị em; dáng ngài mảnh khảnh sau chiếc bàn vuông khá rộng được kê bên phải bức tượng. Căn phòng như  thinh lặng khác thường, tưởng chừng mới người nghe rõ được cả tiếng gió thổi và giọng chim chiêm chiếp bên ngoài.

Bằng một giọng đầm ấm, cha Định lên tiếng :

- Hôm nay chúng ta lại được gặp nhau nơi căn phòng phúc lộc này. Việc đầu tiên tôi xin các chị em là hãy cùng nhau tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cho mọi người được an toàn sau những ngày hoảng hốt chạy loạn. Với những chuyện Chúa đã và sẽ cho phép xảy ra, chẳng ai dám lên tiếng hạch hỏi Ngài tại sao, nhưng chắc chắn một điều là tất cả đã được an bài. Vấn đề là chúng ta có biết tìm ra thánh ý Ngài và rồi vui nhận hay không. Là các thành phần của đoàn Con Đức Mẹ, chị em hãy ráng theo gương Thánh Mẫu mà thánh hoá đời mình trong chương trình của Chúa. Ngày mai ai đâu biết được, nhưng nếu cứ bám chặt vào đôi tay của Chúa, nhất định chúng ta sẽ không bị nao núng bao giờ. Là con người, ai cũng có những phút giây lo sợ trước những hiểm nguy, nhưng sau đó, mình phải cùng nhau nghĩ lại, cùng giúp nhau trung thành tiến bước. Giá trị của đức tin là ở chỗ đó.

Ngưng một chút để ngó quanh cả phòng họp, cha Định lại tằng hắng rồi nói với nét mặt tươi vui hơn :

- Thế nhưng mà à à...tôi rất lạc quan. Lạc quan là vì tôi đang đọc thấy những tâm tình của các chị em lúc này. Tôi biết Đức Mẹ đang gìn giữ đoàn con yêu của mình luôn được vững vàng. Mẹ cưng con, thế nào chả bí mật gửi gấm ít cẩm nang riêng tư cho từng người  ? Rồi đây, chắc tôi sẽ phải chạy tới thỉnh ý các chị em mỗi lần gặp khó khăn.

Rồi như để tạo chút đối thoại, giữa lúc ai nấy còn như ngỡ ngàng chưa hiểu, cha nhìn chằm chặp vào chị Loan, phó đoàn đang nhận trách nhiệm tạm thay chị trưởng :

- Chị đoàn phó có đồng ý với điều tôi nhận xét không  ? Sau chị, nếu ai chẳng thấy đúng xin cứ giơ tay phát biểu.

Mọi người nhốn nháo ngó nhau, rồi cùng hướng về Loan giữa lúc cô nàng ấp úng :

- Thưa cha, con chẳng dám nói cha sai, nhưng riêng con thì quả thật chưa cảm thấy có chi là khác lạ, là đặc biệt để cho cha được lạc quan. Có thể hôm nay vì chúng con trở lại họp đông nên cha nói thế.

Cha Định cười rồi gật gù nói :

- Thế chả lẽ tôi đang mơ chăng  ? Nào các chị em khác, thử lên tiếng nhận định xem sao....

Một phút im lặng bao trùm. Hai cô bạn ngồi gần Dung cùng huých khuỷu tay xúi nàng lên tiếng, bởi đôi lần trước đây họ đã thấy nàng có những ý kiến hay. Thấy Dung như ngần ngừ, một cô vòng cánh tay chỉ vào nàng khiến mọi người đều dồn mắt về phía họ. Thế là cha xứ hất hàm nói :

- Xin mời cô Dung.

Sau loạt cười vui ngụ ý tán đồng của tất cả, Dung đành lên tiếng :

- Thưa cha, con đâu có ý kiến gì. Mà như chị Loan mới nói, nào có ai thấy mình được vững vàng khác lạ hơn ai. Nhưng để chiều ý cha, con xin có một nhận xét nhỏ thế này : có lẽ cha lên tiếng khen lao như lúc nãy là chỉ mong khích lệ trước cho chúng con lên tinh thần, kẻo rồi khi phải đối đầu với những khó khăn, chúng con sẽ nhụt lòng nản chí.

Có mấy tiếng xì xào ủng hộ từ mấy hàng ghế dưới. Dung như được đà tiếp tục :

- Thành ra hôm nay, thoạt vừa vào đề, cha đã nhắn nhủ chúng con nên đặt hết tin tưởng và hy vọng nơi bàn tay quan phòng của Chúa. Cha dạy phải, nên chúng con vâng nghe và tỏ ra vững dạ liền. Có chi là... mầu nhiệm đâu, thưa cha.

Một tràng pháo tay nổi lên bất ngờ khiến bầu không khí xem chừng hăng hái sống động hẳn ra. Cha Định mỉm cười thích thú, nhưng rồi lại vội ra dấu xin mới  người bớt ồn ào kẻo gây hiểu lầm nếu có người lạ đi lại bên ngoài. Sau đó cha đứng đậy tiến ra giữa phòng chậm rãi nói :

- Thôi bây giờ bỏ qua chuyện đó nhé. Phần huấn đức của tôi hôm nay chỉ có thế. Điều hệ trọng là chúng ta giữ được cái tinh thần phó thác của con cái đối với Đức Mẹ. Mỗi người phải cầu nguyện nhiều hơn để tìm ra và biết làm theo ý Chúa. Còn mục trao đổi tin tức liên quan tới giáo xứ và đoàn chúng ta, như chị em đã rõ, có quá nhiều điều bất ngờ và mới mẻ. Toà Giám mục cũng đang gặp nhiều khó khăn và hoang mang lắm. Chính Đức Cha cũng chưa biết phải ra những chỉ thị nào cho các vấn đề mục vụ trên toàn giáo phận. Ngay tại Hoa Lâm này, tôi cũng đang phải làm việc với ban an ninh xã; giờ giấc kinh hạt lễ lạy nay mai chắc sẽ phải đổi theo tiêu chuẩn mới. Riêng về các hội đoàn thì không chừng sẽ bị giới hạn tối đa. Nay mai chúng ta sẽ biết. Lúc này chắc chắn là giáo hữu cần phải trưởng thành và rừng tin hơn. Biết đâu đây là giai đoạn Chúa muốn thử lòng chúng ta để thấy rõ ai là người trung kiên  thực sự. Mong sao các chị em đoàn sẽ là tiên phong để nêu gương cho mọi người trong xứ.

Qua ánh mắt, cha như muốn ân cần gửi trao hết tâm sự cho từng người. Ai nấy cùng hiểu rằng lúc này phải nương tựa nhau mà sống, mà phấn đấu, mà giữ mãi được niềm vui bên ánh mắt Mẹ từ bi đầy xót thương. Họ như thầm trao nhau một lời đoan hứa sẽ kiên tâm đến cùng.

Sau một khoảnh khắc xúc động, cha Định quay lại chỗ ngồi cũ rồi lên tiếng đề nghị :

- Bây giờ xin chị đoàn phó tiếp tục điều khiển buổi hội. Tôi chỉ muốn ngồi thông công và chứng kiến. Hẳn hôm nay mình cần củng cố và bổ túc cho đủ ban chấp hành. Tôi đề nghị các chị em nên bầu ngay vào cuối phiên họp này.

Thế là Loan phải đứng lên làm nhiệm vụ chị trưởng. Nàng dõng dạc đọc lại bản tóm tắt tôn chỉ và nội quy đoàn cho mọi người nghe, rồi xin tất cả thinh lặng đôi ba phút để cầu nguyện cho các đoàn viên hay thân nhân quá cố, những người đau yếu hay vắng mặt, hoặc theo ý chỉ đặc biệt được đề nghị hôm nay. Sau đó Loan hướng về chị thư ký xin nhờ đọc một đoạn sách về cuộc đời Đức Mẹ.

Mục tường trình công tác tông đồ mọi khi khá hào hứng và kéo dài thì giờ, nhưng hôm nay hiển nhiên ai cũng hiểu nên tạm được thông qua. Bù lại, mọi người đều chú tâm vào việc tái phối trí ban đại diện để công việc của đoàn được tiếp tục trôi chảy.

Thật ra, ở những lần trước, chương trình họp đoàn rất rõ ràng quy củ. Phần đầu về thủ tục và tường trình sinh hoạt thường diễn ra theo từng chi tiết tỉ mỉ. Phần sau về chương trình học hỏi và huấn luyện cũng được mọi người theo dõi sát nút, nhất là mới đây có kế hoạch thi đua giữa ba đội đã khiến chín mươi phút họp qua đi lẹ như tên bắn.

Sau khi xin các đội trưởng báo cáo danh sách đội viên, chị đoàn phó đọc lại điều lệ bầu cử của nội quy, rồi mời tất cả lần lượt bỏ phiếu kín cho từng chức vụ.  Cha Định toan lên tiếng yêu cầu chị em đề cử nhau cho dễ bầu hơn, nhưng rồi ngài liền hiểu như hầu hết mọi người rằng các đoàn viên đã quá biết nhau, nên cuộc bầu phiếu thực sự đã diễn ra rất chóng vánh và đơn giản, chả cần ai giới thiệu đề nghị ai.

Chẳng mấy người bỡ ngỡ khi nghe tên Loan đắc cử chức đoàn trưởng. Chị Thanh hợp tính tình với Loan thì được bầu làm đoàn phó. Thanh rất dễ thương, dáng người phục phịch nhưng lúc nào cũng mau mắn giúp đỡ tất cả những ai cần tới mình. Nàng cũng đã từng làm đội trưởng đội Têrêxa gần hai năm nay. Chức thủ quỹ thì được trao cho Phượng, người được tiếng là tính toán giỏi giang chỉ thua có Hồng đã đi ngoại quốc.

Dung há miệng kinh ngạc khi nghe mình được bầu làm thư ký đoàn. Nàng đứng lên xin kiếu, viện lẽ chưa từng có kinh nghiệm trong ban lãnh đạo bao giờ, nhưng cả phòng họp đều xua tay gạt đi. Có thể hầu hết chọn Dung vì biết nàng có học, lắm ý kiến mới mẻ, lại xem chừng  văn hay chữ tốt. Thế là cô nàng đành im lặng ngồi xuống, hai má nóng đỏ bừng vừa xúc động vừa lo âu. Rồi đây, trong mỗi buổi họp, nàng sẽ phải ghi biên bản để viết thành tường trình hẳn hoi, rồi đọc lại rõ ràng ở kỳ họp sau. Dung tự nhiên thấy ù cả hai tai vì phân vân bồn chồn. Đành là cứ chịu khó một chút cũng được đi, nhưng từ nay mình sẽ chính thức thuộc ban thủ lãnh đoàn Con Đức Mẹ, có tiếng nói và trách vụ trong giáo xứ, ở giữa hoàn cảnh căm go mới mẻ này. Làm sao mà không ngần ngại cho được ! Báo hại nàng, cô Ngọc cứ nằng nặc xin từ chức thư ký, lấy lẽ dạo này bà mẹ đau ốm thường xuyên. Thôi thì xin vâng, như một lần nàng đã vâng lời cha phó xứ để làm cố vấn cho đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể dăm bảy tháng trước đây. Dịp đó, Dung cũng hết lời từ chối, nhưng bởi nàng đã sinh hoạt trong đoàn này lâu năm, lại được bao nhiêu người tiến cử, nên cuối cùng chẳng làm sao tránh được.

Cũng thể theo ý kiến cha xứ, sau mục ra mắt đơn giản của tân ban chấp hành cùng những tràng pháo tay và lời  chúc thành công ríu rít, chị em đoàn đã quyết định chia nhỏ các đội ra thành sáu cho dễ sinh hoạt và liên lạc với nhau ở hoàn cảnh mới. Rồi sáu đội trưởng cũng được bầu lên hoặc tái cử. Ai nấy như thầm khích lệ nhau nối chặt vòng tay để cùng bước đi đoạn đường chông gai mới. Không ai muốn nhìn thấy đoàn phải tan rã. Gần mười năm hoạt động cho xứ đạo và lợi ích thiêng liêng của đoàn viên đã tạo cho hội Con Đức Mẹ một nền tảng và uy tín vững chắc. Các chị em đi lập gia dình, mười người như một, đã phải vô cùng luyến tiếc khi rời xa đoàn. Nội quy nghiêm khắc kèm theo việc huấn luyện thật kỹ lưỡng, nên không phải thiếu nữ nào cũng kiên trì làm đoàn viên lâu bền. Thành ra con số trên dưới năm mươi người đòi ai nấy phải hiểu rằng đây là danh sách những thiếu nữ ngoan đạo và thực sự có bản lãnh.

Sau phần tạm phân nhiệm công tác tông đồ cho tháng tới, các chị em đứng lên đọc kinh bế mạc. Bài ca kết thúc 'Sống gần Mẹ' như còn dặt dìu vang vọng trong tâm khảm từng người. Mẹ sẽ chẳng  để ai phải độc hành đơn côi. Đừng bao giờ nản lòng, thối chí.

Dung theo bạn bè ra về mà lòng trí ngổn ngang, buồn vui như lẫn lộn. Có Chúa đấy. Có Mẹ đấy. Có đông đảo bạn bè chị em đấy. Tuy nhiên một cái gì tưởng chừng luôn nặng chĩu trước mặt để cản đường, đe dọa. Một cái gì viển vông bi quan đang lởn vởn đâu đó trong tiềm thức, nơi linh tính. Chắc gì rồi mai còn được dễ dàng gặp nhau để họp hành như chiều nay. Rồi cuộc vật lộn với chuyện sinh nhai biết đâu sẽ chẳng làm chia xa, trắc trở !

Chợt nghĩ tới cái chức vụ thư ký đoàn vừa được khoác lên vai, Dung lại cảm thấy băn khoăn, dồn dập tự hỏi liệu rồi đây có chu toàn được trách nhiệm hay không; mà lại ở vào thời buổi gay go thách đố nữa ! Không hăm hở sinh hoạt với thôn với ấp, đặc biệt là đoàn thanh niên xung phong đang được chính quyền hô hào xúc tiến, và rồi chỉ quan tâm đến chuyện hội họp nhà thờ, nhất định chả dễ gì người ta sẽ để cho mình tự do hành động !

Trong thâm tâm, chuyện bối rối hơn cả lúc này với Dung vẫn là mối hên hệ mới đây giữa nàng và Tường. Chưa ngã ngũ hẳn là tình yêu, mà cũng chưa có gì là chính thức, công khai. Tuy nhiên, một số bạn bè nàng đã nhận ra, kể cả hai cô xem chừng hơi ghen với nàng. Hôm nay, vừa sau lúc được bầu làm thư ký, giữa tình trạng còn hoang mang lưỡng lự, Dung thoáng nghe thấy tiếng Xuân, đội trưởng đội Cécilia, nói vọng lại :

- Chị Dung chị ấy đâu có sợ gì, từ nay cần chi đã có anh Tường cận kề giúp đỡ. Sổ sách hồ sơ nào mà chả xong  !

Dung đã bình tĩnh không đáp lại hay phản ứng chi cả. Nàng chỉ muốn đừng ai đả động tới chuyện riêng tư đời mình. Đã đành chuyện phải đến rồi sẽ đến, nhưng nàng chỉ muốn tất cả được thật tự nhiên, êm đềm, chứ đừng là ồn ào sóng gió, đừng là gây cấn trái ngang. Dung mong sao sẽ không gặp phải hoàn cảnh trớ trêu như của Yến cũng thuộc đoàn Con Đức Mẹ đi lấy chồng năm ngoái, gia đình hai bên cứ lời qua tiếng lại mãi không xong.

Ngẫm nghĩ đến thân mình, Dung vô tình hồi tưởng lại quãng thời gian qua. Nàng còn nhớ như in nơi đầu ngày bố nàng, ông quản Duyệt, qua đời vì chứng sưng màng óc vào quãng năm năm trước đây, Dung buồn rầu chán nản như mất cả tinh thần, để rồi cuộc sống mẹ con nàng cơ hồ thay đổi hẳn kể từ sau đó. Một người anh trai tử trận trước đấy không lâu đã mở đầu cho cuộc khủng hoảng gia đình. Còn người anh kế thì nhờ được hoãn địch vì gia cảnh nên ở nhà thay bố lo lắng ruộng vườn. Cách đây hai năm, đám cưới của anh đã lấy lại chút niềm vui cho nhà và an ủi cho mẹ, nhưng ít tháng nay giữa hai vợ chồng anh thường xảy ra những lần căng thẳng cãi vã. Dung không thích đã đành, nàng còn thấy lo sợ nữa, cộng thêm nỗi hoang mang về tương lai của chính bản thân mình. Đôi khi nàng đã vẩn vơ nghĩ tới chuyện đi tu, nhưng có lẽ định mệnh còn đẩy đưa thế khác.

Cho tới khoảng hơn nửa năm trước đây, lần đầu tiên Dung thấy con tim xôn xao rạo rực khi gặp Tường. Cơ hội thật bất ngờ lúc Dung và chàng cùng có mặt trong một dịp huấn luyện huynh trưởng Thiếu Nhi vào kỳ lễ Giáng Sinh. Chả biết Tường có để ý tới nàng trước đó hay không, nhưng hôm ấy chàng đã mạnh bạo khơi mào bắt chuyện và rồi mời nàng ra sân ngồi tâm sự vòng vo suốt cả giờ giải lao.

Cái phong cách lịch thiệp cũng như thái độ trưởng thành của Tường đã gây một ấn tượng thật tốt đẹp nơi Dung. Dĩ nhiên Dung cũng dư biết cái 'mác' thày giáo nặng ký của chàng; ở đâu không biết chứ tại xứ đạo Hoa Lâm này, Tường trước sau vẫn được đa số nể vì, trọng vọng. Lại thêm mới đây chàng gây dựng nên ca đoàn cho lễ giới trẻ, khiến Tường càng được lắm người biết đến và vô tình trở nên cái đích cho nhiều gia đình có con gái lớn phải ngấp nghé chào mời. Hai cha trong xứ còn tín nhiệm Tường ở cái căn bản 'chủng viện' trước đây của chàng. Đặc biệt cha phó Huân thì cứ vài hôm lại  cho mời Tường lên bàn bạc kế hoạch nọ với chương trình kia. Dĩ nhiên chàng không thể chối từ khi được mới làm trưởng đoàn cố vấn cho hội Thiếu Nhi của cha. Dẫu sao, Dung tuyệt nhiên không vì thế mà mong muốn được làm quen với Tường. Tất cả chỉ là tình cờ, không toan tính, chẳng sắp xếp.

Còn với Tường, chẳng những chàng được nghe dư luận kháo láo, mà chính bản thân chàng đã thấy để rồi phải công nhận rằng Dung sinh hoạt đoàn thể thật giỏi. Đã vậy nàng lại thùy mị và ngoan đạo khác thường. Tường rất vui khi có được Dung cùng tiếp tay trong ban cố vấn, nhưng tự nhiên chàng đã phải hết sức dè dặt tế nhị, chính vì Dung đẹp nổi bật hơn các bạn bè khác.

Cả ba bốn tháng trời trôi qua như thế, hai người chỉ thấy mến và trọng nhau. Một thứ tình bạn nhẹ nhàng thanh khiết. Tất cả kể như chưa là gì. Tuy nhiên cả hai đều mường tượng như đang có điều chi mới mẻ khác lạ nằm sâu nơi dạ nơi lòng. 

Cho đến một hôm, Tường hỏi thăm Dung về chuyện nàng chuẩn bị thi tú tài. Dung như bối rối :

- Dung thấy hồi hộp quá à  ! Chỉ sợ đạp vỏ chuối thì uổng phí bao năm trời vất vả cùng với sự hy sinh to lớn của gia đình.

Tường khẽ mỉm cười :

- Ai cũng khen Dung học giỏi. Thi thì phải đậu chứ. Tường nghĩ vấn đề ở đây chỉ là đậu cao hay đậu thấp mà thôi.

Dung cười theo :

- Cảm ơn Tường đã khích lệ. Bởi nghĩ đến công lao của cha mẹ, Dung nhủ mình ráng chăm học nên cho đến nay kết quả không tệ lắm. Thế nhưng đụng tới chuyện thi cử, ai mà dám nới mạnh cho được. Đâu phải ai cũng học chì như Tường  !

Tường tròn mắt :

- Dung lại dựng chuyện rồi  ! Sao Dung biết tôi đã không phải vất vả ở những lần thi  ?

Dung nhìn Tường :

- Dân Hoa Lâm đây ai mà không phục tài Tường  ! Người ta đồn Tường học giỏi mà dạy học còn giỏi hơn. Mấy cô lối xóm hay kể về Tường lắm....

Rồi ngập ngừng một lát, nàng tiếp :

- Chắc Tường hay gặp họ để tâm sự  ?

Tường bỗng như thấy nóng ran trên mặt, bất giác nói với giọng sửng sốt :

- Dung đổ vạ cáo gian rồi đó nhé. Xin chớ nên phóng đại tô mầu và vẽ rắn thêm chân một cách vô cớ. Tường vẫn biết thân phận mình, nào dám gáy dám ca cùng ai bao giờ ! Dung có tin rằng Dung là người đầu tiên Tường nghĩ mình có thế giãi bày tâm sự để đối thoại như hôm nay không  ? Tường không nói dối đâu  !

 Dung vui trong bàng hoàng, hai má bỗng đỏ hồng. Rồi lơ đãng nhìn về phía xa, nàng mấp máy đôi môi :

- Dung là thớ gì so với người ta  !

Tường cắt ngang:

- Thì ai đâu dám xưng rằng mình… có thớ ! Thôi, nếu vậy thì cả Tường lẫn Dung đều giống nhau, được không  ?

Dung bỡ ngỡ:

- Giống thế nào  ?

Tường cười:

- Cùng có…thớ một chút xíu thôi. Thế là được rồi. Đủ để mà sống, mà thấy còn yêu đời, mà tự tin rồi vượt qua được khó khăn.

Bỗng cả hai cùng lặng im để theo đuổi những ý nghĩ riêng. Cơn gió rì rào thổi qua đầu như đang thay đổi cả hình hài vũ trụ phía trên cao. Từng vạt nắng tưởng chừng đang nhảy múa reo vui trước mắt. Hai tâm hồn rõ là không hẹn mà bỗng hạnh ngộ trong cung đàn dặt dìu xa vắng. Hơi ấm vô hình đang lan toả và vây bọc khoảng không gian nhỏ bé nơi họ đahg ngồi. Tự dưng cả hai cùng thấy tâm hồn họ thật gần nhau. Tháp nhà thờ sừng sững như đang chứng kiến niềm vui trong sáng hồn nhiên họ đang cùng ôm ấp chia sẻ.

Đột nhiên Tường thấy tội nghiệp Dung khi nghĩ tới chuyện nàng hàng ngày phải dậy sớm vội vã đón xe lam lên trường trung học đệ nhị cấp mãi trên quận lị Đông Doanh. Hơn cả mười cây số chứ ít gì đâu  ! Tốn kém và nhọc mệt cho việc học chưa hết, nàng lại còn phải dành thời giờ phụ giúp bao công tác khác của gia đình nữa. Mà chả biết làm sao Dung vẫn gắng sức tới sinh hoạt đoàn thể được như hôm nay  ! Chàng định tâm mai mốt sẽ đề nghị được tiếp tay một chút với Dung, bắt đầu bằng chuyện hướng dẫn thêm về bài vở và chia sẻ kinh nghiệm học thi.

Dung thì tỏ ra tư lự hơn. Mối liên hệ với Tường, dẫu mới chỉ là manh nha chút tình cảm nhẹ, đã bất ngờ khiến nàng phải nghĩ tới cả một viễn tượng lớn trong đầu. Đã nhiều lần, Dung ngồi một mình đăm chiêu để tự tìm hiểu. Con gái mà, lớn lên cô nào chẳng có mộng để dệt và tương lai với hạnh phúc để ước mơ  ! Nàng bắt đầu nhận ra rằng đàn bà chỉ thực sự thấy mình đẹp, thấy mình tươi mát và duyên dáng khi khởi sự có chút tương quan nào đó với đàn ông. Giờ đây, nơi tâm hồn Dung, một mềm vui mới vừa chớm nở, một biến chuyển lạ vừa khai sinh. Quả là bất ngờ khi nàng liên tiếp cảm nghiệm thấy những xúc động khác thường. Chả hiểu vì sao, trong tâm trí Dung, cứ thỉnh thoảng lại hiện lên khuôn mặt chữ điền của chàng, cái khuôn mặt luôn vẽ ra hai nét đối chọi nhau : vừa trẻ trung vừa già dặn, vừa hờ hững vừa thiết tha. Cũng chỉ mới đây thôi, Dung chợt ý thức thật rõ rằng thiếu nữ nào thì cũng giống nhau, cũng cần gặp cơ hội để được trao đổi tâm tư với một người con trai mình hợp, mình thích, dẫu cái liên hệ này chả nhất thiết phải đưa đến chuyện hôn nhân gia đình. Mà với trường hợp riêng của Dung hôm nay nữa, nàng như thật vui vì đang nhìn ra một lối thoát mở đường, một chân trời tươi sáng vừa hé mở : Đã gần cả một năm nay, Dung khổ sở vì phải tránh né chuyện gia đình nàng muốn  đặt vấn đề cưới hỏi với anh chàng Dân ở khu Giu Se.

Bất giác Dung giật mình khi chợt nhớ tới câu nói của mẹ nàng trước đây :

- Nhận lời cưới Dân là giải quyết được mọi thứ. Con nghĩ lại đi, mấy ai trong xã Hoa Lâm này hơn được Dân  ?

Phải rồi, mẹ nàng nói chẳng sai là bao. Dân coi cũng có vóc dáng, nhà lại khá giả. Bố mẹ chàng làm chủ tới hai chiếc xe vận tải chở rau đi Sài Gòn bán. Ông bà Tho lại được tiếng rộng rãi lịch thiệp. Con cái trong nhà đều nề nếp đâu vào đấy. Riêng Dân cũng đã theo học một hai năm trên đại học Đà Lạt, nhưng rồi với một lý do nào đó lại bỏ cuộc. Nghe đâu anh chàng đang chạy chọt để thi vào trường Quân y Sài Gòn thì mất nước. Bây giờ hình như Dân đang giữ chân chủ xe kiêm tài xế trong tổ hợp vận tải công tư hợp doanh.

Chả rõ vì sao Dung tự nhiên thấy khó có cảm tình với Dân. Có thể ngay từ ban đầu, nàng đã không thấy hợp với cung cách nói chuyện mà nàng cho là đây vẻ tự đắc phô trương, nhất là mỗi khi Dân có dịp khoe khoang này nọ trước mặt các bà các cô. Với Dung, thái độ đó như ngấm ngầm che đậy một tâm tư thiếu bản lãnh, chưa trưởng thành nàng thường gặp thấy nơi một số khá đông bọn con trai mới lớn. Gia dĩ, Dung còn lo sợ khi thấy Dân tỏ ra khô khan về mặt tôn giáo, đạo nghĩa. Con nhà giàu, lại quen ăn chơi, chỉ tổ làm Dung ngần ngại để đặt ra nhiều nghi vấn trong đầu.

Trong lúc đó, Tường khơi lên hình ảnh của một chàng trai đầy chững chạc, đủ tư cách. Cặp mắt Tường lúc nào cũng như muốn chứng minh một tâm hồn hiểu biết, thức thời ẩn giấu bên trong. Theo Dung, chàng càng khiêm tốn, người ta càng nhận ra những nét cao quý thanh tao.

 Thế là khi được cùng Tường tham gia chuyện đoàn thể, gần cha gần Chúa, Dung tưởng chừng như thấy mới mơ ước hiện ra trong nhãn giới. Một cái gì đầm ấm dịu dàng thường xuyên vây bọc tâm tư  nàng. Dung dần dà nuôi cái ý nghĩ phải can đảm dứt khoát để tranh đấu cho hướng đi của mình. Và rồi, qua vài lần gặp gỡ nữa với Tường, nàng đã nắm rõ được thái độ mình cần có, để rồi hết phải lo âu thái quá về dư luận, bạn bè. Còn phần gia đình, Dung tính sẽ tùy tiện mà đối phó sắp xếp, sao cho khỏi xung khắc va chạm thì thôi.

Dịp loạn ly tháng tư đến bất thần khiến Dung buộc lòng bỏ dở chuyện thi cử học hành. Mà có lẽ lần này nàng sẽ phải vĩnh viễn giã từ đèn sách. Đau thương lắm, nhất là phải lên đường di tản trong hoảng hốt không có Tường cùng đi. Tương lai mờ mịt như bóng đêm. Một ngày dài như một thế kỷ. Buổi trở về Hoa Lâm gặp lại Tường, Dung như người chết tái sinh, chả cần hiểu thời thế đã vần xoay tới đâu. Chỉ biết rằng vẫn còn bóng chàng luẩn quẩn đâu đây, cho nàng được yên lòng vững dạ và tiếp tục nuôi dưỡng những ước vọng đẹp trong đời.

Một cơn gió mạnh thổi qua khiến Dung như chợt tỉnh sau giấc mơ dài của ý  nghĩ mông lung. Ngó quanh quất thấy chẳng còn cô bạn nào của đoàn Con Đức Mẹ, nàng rón rén bước lên thềm cửa hông nhà thờ rồi khẽ đẩy cửa bước vào. Bầu khí trang nghiêm bao phủ tứ phía. Lác đác dằm ba cụ già đang rầm rì đọc kinh lần chuỗi. Ngọn đèn chầu mầu đỏ leo lét trên cung thánh như nhắc nhở nàng về sự hiện diện linh thiêng của Chúa nơi đây. Dung lặng lẽ qùy xuống, thầm khấn nguyện cho họ đạo Hoa Lâm sẽ mãi được may lành để không còn thấy ngày chia ly tan tác.


BA


- Thày già Hào vừa bị công an chân bắt trên đường lên Đà Lạt. Nghe đâu đang bị giữ ở huyện. Tôi chạy lên báo tin gấp cho cha xứ đây.

Ông trùm Phan hớt hải bước lên bậc thang cấp nhà xứ nói cho bà bếp vừa đủ nghe lúc bà mới xách giỏ bước ra để đi chợ buổi sáng. Trời mưa lất phất kèm theo từng cơn gió lạnh từ hướng bắc khiến khuôn mặt ông trùm khu Đa Minh đã tái lại càng xanh xao hơn, tưởng chừng như cắt không ra được giọt máu.

Cửa phòng khách cha xứ thường ngày vẫn được hé mở, nhưng cả hơn tuần lễ nay ngài đã cẩn thận đóng và cài then kỹ lưỡng. Câu chuyện đau thương trên Cầu Đất đã tình cờ trở thành bài học cho các Linh mục quanh vùng : công an thuê trẻ nít ném truyền đơn 'ngụy' vào phòng cha xứ để rồi tới bắt ngài, cho đến nay vẫn chưa thả. Thành ra, cẩn tắc vô ưu vẫn là lời cổ nhân dạy qúy hoá, lúc này Cha Định còn nhớ nằm lòng.

Ông trùm Phan sốt ruột gõ liên hồi vào phiến cửa gỗ, bụng thầm nghĩ chắc cha xứ đóng cửa để tránh gió mưa, chứ trời còn sớm, ngài chưa đi vắng đâu. Rồi như quá bồn chồn, ông liền quay lại hỏi bà bếp còn đang kinh hãi chưa kịp định thần :

- Cha xứ có nhà đó chứ bà bếp  ?

- Có đấy ông cố đợi chút nữa đi. Mà... mà... vì sao thày già lại bị bắt mới được chứ  ? 

Vừa lúc ông trùm đưa tay lên gãi đầu toan tìm lời cắt nghĩa thì cánh cửa bật mở. Phỏng chừng cha xứ đã nghe ra tiếng người bên ngoài nên ngài nói ngay :

- Có gì thế ông trùm  ? Mời ông vào đây.

Bà bếp cũng vội bước vào theo sau ông trùm Phan. Cha Định chưa khép xong cánh cửa, ông đã liến thắng trong hơi thở hổn hển :

- Cha có nghe tin thày già bị bắt chưa  ?

Cha Định tròn mắt :

- Sáng nay bố già đi Đà Lạt mà  ! Ai nói cho ông trùm vậy  ?

Ông Phan nắm chặt hai bàn tay lại :

- Thằng Thuật là cháu ngoại của con sáng nay lên huyện sớm để xin giấy tờ chi đó, có chứng kiến công an chận chiếc xe đò chở khách Hoa Lâm đi Đà Lạt rồi giữ lại mấy người, trong đó có bố già Hào.

- Cha Định nhíu hàng lông mày : 

- Thằng Thuật nó có nói mấy người kia là ai không  ?

- Bẩm nó bảo lúc đó trời còn đặc sương, nhìn mãi chẳng ra ai. Tuy nhiên nó đoán ý chừng có vợ chồng anh Khoát thì phải.

Cha Định gật gù, đầy vẻ trầm ngâm. Ngài tuy có nhột dạ, nhưng xem ra không ngạc nhiên cho lắm về chuyện này. Trong trí cha như còn nhớ láng máng rằng đã có thấy Khoát lên thăm thày già Hào một đôi bận. Thày già vốn thuộc loại nóng tính, thù ghét Cộng sản thấu ruột gan. Biết đâu, qua vài câu chuyện không kín đáo khéo léo, có người đã mách đến tai công an. Đặc biệt là trong ít thới gian vừa qua, đó đây thiên hạ đều nghe đồn thổi về phong trào kháng chiến Phục quốc đang ngấm ngầm hoạt động. Vùng Đà Lạt Lâm Đồng này thì có tin thiếu tá Phương của quân đội Cộng Hoà cũ đang tung hoành trong rừng. Bởi nhà cầm quyền mới muốn sớm ra tay ngăn chặn, nên có thể thày già cùng với nhóm Khoát đã trở thành nạn nhân đầu tiên. Mà biết đâu công an cũng  quyết định bắt thày để dằn mặt hai Linh mục Hoa Lâm  !

Ngoài trời mưa như nặng hạt thêm. Từng cơn gió hú như gào thét qua khe cửa. Sau mấy phút thinh lặng, cha Định thong thả nói :

- Thày Hào cho biết sáng nay đi Đà Lạt mua vải may thêm áo cho đoàn giúp lễ và mấy thứ lặt vặt khác. Chắc công an theo dõi thày kỹ lắm mới chân bắt như vậy. Bây giờ mình phải làm sao đây  ?

Bà bếp còn như đang thút thít khóc, oà lên nói :

- Cha phải cho người lên huyện bảo lãnh bố già về. Một là họ bắt oan, hai là họ khởi sự đàn áp tôn giáo.

Cha Định đưa ngón tay ngang miệng :

- Bà bếp bình tĩnh đi. Chuyện đâu rồi sẽ vào đó. Để chúng tôi sắp xếp coi.

Rồi quay qua ông Phan, cha nói : 

- Xin phiền ông trùm đi gặp ngay ông phó xã Lộc để nhờ liên lạc hỏi trên huyện giùm. Chắc còn phải cậy người đưa quần áo thay và tiếp tế cho bố già nữa. Ông Lộc tuy làm việc với họ, nhưng thật ra còn thương người lắm. Ông trùm đi liền cho nhé. Bây giờ tôi muốn qua gặp cha phó một chút.

Nghe chuyện thày Hào bị bắt, cha Huân lộ vẻ căm giận ra mặt. Xỏ hai tay vào hai túi áo chùng đen, cha nói qua kẽ răng :

- Đúng là bọn họ bắt đầu giở trò khủng bố đây. Hô hào dân chúng cộng tác xây dựng đất nước mà cứ chơi luật rừng thế này thì thu phục thế nào được nhân tâm  ! Bực thật  !

Cha Định ráng giữ vẻ ôn ồn :

- Tôi đã nhờ ông trùm Phan liên lạc xem thế nào rồi. Thôi, mình khác nào như cá nằm trên thớt. Đức cha cũng dặn nên kiên nhẫn khéo léo kẻo họ đàn áp bắt bớ chỉ tổ thiệt lúc này, bởi chả biết tìm chạy chữa cầu cứu nơi đâu. Hôm nay, tôi hơi nghi họ bắt bố già vì tin ông cụ có liên lạc với mấy thành viên Phục quốc.

Cha Huân vùng vằng :

- Họ không có lấy mảy may bằng chứng. Thân già như thế còn đánh đấm được gì mà họ dám dựng chuyện !

 - Cha dư biết Cộng sản đâu cần bằng chứng hay trát toà mới ra tay bắt bớ. Kinh nghiệm miền Bắc rành rành ra đó. Tốt hơn cả là mình cứ nên cẩn thận.

Cha Huân vẫn nóng nẩy :

- Con nghĩ mình chả nên sợ để rồi họ được nước cưỡi lên đầu lên cổ mình. Hôm nọ họ gọi con lên xã cảnh cáo mấy bài giảng chủ nhật, con nhất định cãi cho tới cùng. Không lẽ giảng lời Chúa mà mình phải nói theo ý họ sao !

- Đồng ý là mình giảng lời Chúa, nhưng họ hay tìm chỗ sơ hở để xuyên tạc rằng mình khuyến khích dân phản động, chống đối.

- Họ có giỏi cứ tuyên bố cấm đạo đi coi  !

Cha Định mỉm cười :

- Sao cha ngây thơ thế  ! Đời nào Cộng sản họ lại dại dột tuyên bố cấm đạo để bị thiên hạ lên án. Hiến pháp ghi tự do tôn giáo là một chuyện, nhưng thực tế họ xử sự ra sao thì lại là chuyện khác.

Ngừng một chút, cha xứ tiếp :

- Chính sách diệt đạo của họ bây giờ tinh vi lắm, bởi học bao nhiêu kinh nghiệm của Nga sô và Trung cộng rồi. Cứ ghép tội chống chính quyền rồi triệt hạ các người lãnh đạo tôn giáo, họ hy vọng sẽ đạt được mục tiêu. Cộng sản dư biết lời Phúc âm 'Đánh kẻ chăn thì đoàn chiên sẽ tan rã'. Thành ra họ không ngừng tìm cơ hội ra tay.

Cha Huân vẫn hậm hực :

- Điệu này chắc mình phải tổ chức ngầm, dựa vào thế nhân dân để tẩy chay, bất hợp tác. Nhất định họ sẽ phải chùn bước.

Cha Định dằn từng tiếng : 

- Không dễ như cha nghĩ đâu  ! Cộng sản đã thuộc lòng bài học thực hành chính sách cây gậy và củ cà rốt. Để rồi cha xem, ai hơi ngó ngoé chống đối là họ thẳng tay đàn áp liền.

Nói xong, cha đưa mắt ngó ra hàng hiên. Mưa như đã ngớt, nhưng bầu trời vẫn u ám mây đen. Trước khi trở về phòng riêng, cha Định dịu giọng :

- Thôi cha Huân ạ, âu cũng là một dấu hiệu của thách đố thời đại mới. Biết đâu những thánh giá thế này đang nói lên thời điểm của ơn phúc ta chẳng ngờ được. Điều hệ trọng là ta phải kiên trì cộng với chút khôn ngoan. Lúc này giáo dân cần ta hơn lúc nào hết.

Ngồi một mình nhìn ra ngoài qua khuôn cửa kính mờ nhạt, cha Định như thấm thía cái ý nghĩa của đời tận hiến phục vụ. Hai vai bỗng nghe trĩu nặng với trách nhiệm của kẻ chăn chiên, nặng một cách khác thường, giữa hoàn cảnh khó khăn bất ngờ xảy tới. Lòng ngài tưởng chừng đang giá lạnh hơn cả bầu trời mưa gió ngoài kia. Thương cho mình rồi lại vu vơ thương hại cho cha Huân còn trẻ chưa nhận thức được những ngõ ngách tế nhị của thời thế. Thử thách muôn hình vạn trạng còn đợi chờ cha suốt cả quãng đời dài trước mắt. Mong cho cha sớm hiểu rõ và nhìn thấy những bẫy ngầm kẻ địch đang giăng ra hầu tiêu diệt mình. Cầu xin sao để cha kìm hãm được những phút nóng nẩy và tự ái kẻo rơi vào nanh vuốt của bè lũ Sa tan.

Nhớ lại dịp vị phụ tá mới được bề trên cử về cộng tác với mình cách đây hai năm, cha Định đã sớm nhận ra một tâm hồn nhiệt thành hãng say khác thường. Chả mấy cha trẻ lại có những chương trình sinh hoạt hội đoàn tân tiến như cha Huân. Nhiều khi ngài quá hăng hái đến độ bê trễ trong cả giờ ăn giấc ngủ.

Từ khi trở lại sau dịp theo dân chạy loạn dăm sáu tháng trước đây, khung cảnh nhà xứ cứ dần dà thay đổi. Bề trên gọi cha Trực về nhà giám tỉnh vì nhiệm vụ hiệu trưởng đã phải chấm dứt để trao lại trường cho nhà nước. Tối sớm chỉ còn hai cha chia sẻ công tác mục vụ giáo dân.  Ngoài mối liên hệ đồng nghiệp Linh mục, cả hai còn thuộc cùng dòng tu Đa Minh để rồi có thêm lý do làm việc khăng khít hơn bên nhau. Thành ra bầu khí luôn đượm vẻ ấm cúng thân mật. Thêm vào đó, bóng dáng thày già Hào còn giúp tạo nên khung cảnh gia đình, cùng với sự hiện diện âm thầm nhưng luôn tận tâm phục vụ của bà bếp tuổi đã ở cỡ lục tuần.

Riêng cương vị của bố già Hào thì thật là đặc biệt tại nhà xứ Hoa Lâm. Xuất thân từ tu hội các thày giảng Nguyễn duy Khang, thày rất vui vẻ và chịu khó trong bậc sống trợ sĩ của mình. Thường ngày bố già đóng vai quản gia trong nhà xứ kiêm việc phụ trách phòng thánh và các đồ phụng tự của thánh đường, cũng như điều khiển việc kinh hạt tối sớm. Không là đầu, nhưng thực sự bố già đã là bộ xương sống của nhà xứ. Nhờ thày mà hai cha được rảnh tay trong việc duy trì luật lệ kỷ cương. Đặc biệt ở trong các dịp lễ trọng hay các dịp trẻ em xưng tội hoặc rước lễ vỡ lòng, nhất nhất đều phải qua đôi tay đầy kinh nghiệm của bố già.

Tin bố bị bắt đương nhiên gây xúc động không ít hôm nay. Cha Định như linh cảm thấy một giai đoạn mới chông gai gay cấn hơn đã thực sự khai mào. Thày già hôm nay là nạn nhân của đợt tấn công thàm dò tiên khởi. Cộng sản muốn thử chặt chân tay các Linh mục trước khi đả động tới chính bản thân các ngài.

 Bất giác đưa mắt đảo quanh căn phòng, cha thấy khuôn mặt tượng Chúa chịu đóng đinh treo trên tường bỗng như sầu não hơn mọi khi. Phảng phất đâu đây bầu khí nặng nề căng thẳng của khu vườn thương khó Giệt Si Ma Ni dịp Chúa sắp thọ hình ngày nào. Trong một phút giây xao xuyến, cha thấy con tim tựa như co thắt lại. Cha chợt nghĩ, Chúa xưa cũng đổ mồ hôi máu khi phải đối diện với những khổ hình đang chờ đợi. Còn mình hôm nay, cũng đơn độc giữa làn nước lũ và móng vuốt địch thù. Chén đắng đang được gửi trao, làm sao để bình thản và can trường đưa tay đón nhận  ? Làm sao có thể chân thành ngỏ lời với Thiên Chúa rằng xin cứ làm theo ý ngài định liệu  ? Phải chăng đây là lúc phải bắt chước các tông đồ xưa xin Chúa dùng lửa trời tiêu diệt bọn người vô thần hỗn xược, như dịp các ngài xin phá hủy làng xóm Samaria dám xua đuổi Chúa  ? Chắc rồi Chúa cũng sẽ chối từ.

Một cảm giác run sợ đột nhiên lan tỏa toàn thân khiến cha ngồi co người lại trong chiếc ghế mây cũ kỹ. Cha cố gắng định thần để thấy cho thật rõ đường hướng phải đi và phương thức phải áp dụng cho tình thế mới. Năm sáu ngàn giáo dân Hoa Lâm đang trông cả vào mình, chứ nào phải chuyện cỏn con  ! Một tính toán, một quyết định sai lầm nhỏ thôi cũng thiệt hại thật lớn cho tất cả. Tinh thần ai nấy xem chừng đang xuống dốc thê thảm, chỉ còn lại tôn giáo, chỉ còn lại nhà thờ kinh lễ là niềm an ủi cuối cùng. Lúc này, biết thế nào là xử sự cho khôn ngoan đây  ! Ước nguyện được ơn trên soi đàng dẫn lối. Cầu mong Thần linh Chúa sẽ là ánh sao bắc đẩu chiếu sáng nẻo đường tăm tối trần gian.

Bỗng có tiếng gõ cửa dồn dập khiến cha giật mình quay lại. Chưa kịp hoàn hồn thì cha đã nghe một giọng nói khàn khàn vọng từ bên ngoài :

- Con là phó xã Lộc đây, thưa cha xứ.

Lúc mời vị khách ngồi đối diện cạnh chiếc bàn vuông mộc mạc giữa phòng, cha thấy hơi lo khi nhận ra nét mặt ông đầy vẻ lạnh lùng, nghiêm nghị. Vừa xua tay xin miễn trà nước, ông Lộc vừa chậm rãi nói :

- Mong cha xứ thông cảm, lâu rồi không có dịp ghé thăm sức khoẻ cha. Nhưng gia đình con vẫn nhớ đến cha và cầu mong cho cha luôn an mạnh chăn dắt đàn chiên.

Cha Định gật đầu :

- Xin cảm ơn ông phó xã. Tôi cũng mong thỉnh thoảng được gặp nói chuyện với ông.

Ông Lộc như thành khẩn :

- Xin cha hiểu cho công việc làm của con. Nó thật khó khăn tế nhị lắm. Tuy ra làm việc với chính quyền, nhưng con  chẳng bao giờ dám quên bổn phận người con Chúa. Lúc này, nhiều cặp mắt đang theo dõi con lắm, nhất là ông chủ tịch, người của huyện đưa về. Bên cạnh đó là ủy viên Đảng, lúc nào cũng hối thúc thi hành lệnh trên thật gay gắt, nghiêm chỉnh. Vừa rồi may mà gặp cụ trùm Phan ở nhà, chứ nếu tại trụ sở xã thì chắc con chưa tiện để lên gặp cha bây giờ.

Cha Định thở nhẹ :

- Thế ông phó đã biết vụ thày Hào ra sao chưa  ?

- Vâng trước khi lên cha, sáng sớm con đã ghé xã và được nghe báo cáo rồi. Để con sẽ theo dõi và cho cha hay thêm sau. Con đoán chừng cũng quanh quẩn ba cái chuyện Phục quốc chi đó thôi. Hẳn bố già không kín miệng đủ. Thời buổi này, hơi chút chút là bị công an hỏi thăm liền.

Trầm ngâm một lát, ông nói tiếp :

- Hôm nay con cũng lên nhân thể báo tin cho cha hay : Mấy bữa nữa, cán bộ huyện sẽ về họp lần chót để chính thức ban hành những luật lệ chặt chẽ hơn trong việc kiểm soát xã Hoa Lâm. Cách riêng với chuyện nhà thờ nhà xứ, con e rằng họ sẽ giới hạn việc kinh lễ và hội họp như họ từng đề cập tới mấy lần.

 Cha Định nhíu cặp lông mày :

- Họ có nói gì về các Linh mục chúng tôi  ?

- Đương nhiên là họ cho theo dõi sát nút. Đặc biệt cha phó thì con nghĩ nên cẩn thận hơn. Tấm gương thày Hào hôm nay cho phép mọi người tin rằng họ sẽ còn tiến xa hơn nữa. Xã đang chú ý thật nhiều vào đám thanh thiếu niên. Có chi bực tức, nhất định họ chỉ đổ lỗi cho cha phó lèo lái giật giây.

Cha Định nhìn xa vắng ra ngoài cửa sổ :

- Đức Giám mục cũng dặn chúng tôi phải khéo léo khôn ngoan, chớ nên làm những chuyện thách đố chính quyền mới. Tôi cũng có chia sẻ với cha phó chuyện này; áng chừng ngài còn quá hăng hái....

Ông Lộc kéo ghế gần cha Định :

- Cha dư biết, bởi Hoa Lâm toàn tòng Công giáo di cư, họ còn oán hận chưa biết bao giờ mới nguôi. Bây giờ họ không muốn ra tay lộ liễu trả thù, nhưng trước sau họ cũng có kế hoạch tìm những sơ hở của mình để đập.

Cha Định ngồi trầm ngâm một hồi, rồi quay qua nhìn ông phó xã :

- Còn riêng bản thân ông bây giờ ra sao ?

- Con được họ mời ra làm việc với dụng ý lấy lòng bà con Hoa Lâm đó thôi; ra cái điều họ cũng tín nhiệm cả người Công giáo sở tại. Dịp con chống đối ông quận hống hách tham nhũng thời trước để rồi bị bắt giam, họ cũng thừa hiểu chỉ vì con trực tính, chứ nào phải ghét chi quốc gia mà làm lợi cho họ. Đoán chừng chả mấy nữa họ cũng cho con ra dìa.

- Ông cũng nên mềm dẻo đôi chút. Giáo xứ luôn cần và kỳ vọng nơi ông. Còn riêng vụ thày Hào thì ông cố khéo léo theo dõi giúp đỡ cho. Mong tin ông từng phút từng giây đó. 

Tiễn người khách qúy ra về được cả một lúc lâu rồi mà cha Định vẫn như thấy đầu óc còn rối ren pha lẫn nỗi bàng  hoàng. Cha cố hồi tâm để mở sách đọc đoạn kinh nhật tụng ban trưa, nhưng trí khôn xem chừng cứ xoay tít vòng vo. Bài thánh vịnh 28 tình cờ khiến cha khựng lại, mở to đôi mắt rồi đứng lên đọc lớn tiếng. Từng chữ từng câu vô tình nên như những giọt nước mát trôi vào cổ họng đang khô khan : Thưa Chúa, Ngài là tảng đá kiên vững cho cả đời con. Chúc tụng Chúa vì Ngài luôn lắng nghe tiếng con cầu Xin thương cứu con khỏi bàn tay bọn người gian ác phỉnh lừa. Con sẽ ca hát danh thánh Ngài....

Gấp sách lại, cha vẫn thấy như chưa hết xúc động, nhưng nghe lòng được thanh thản hơn đôi chút. Hai hàng nước mắt bỗng từ từ lăn xuống theo hai gò má xương xẩu. Hơn năm năm trời về chăm sóc đoàn chiên Hoa Lâm, chưa lần nào cha thấy tâm tư trùng xuống như lúc này. Tuổi ngoài ngũ tuần tuy chưa già cho lắm, nhưng giờ đây tưởng chừng chả còn thấy đâu những hứng khởi với hào khí của  ngày mới về. Bao trở ngại chặn ngang lối đi làm sao khỏi hoang mang cho được  ! Đã đành Chúa sẽ là nguồn sức mạnh, nhưng ai dám nghĩ mình sẽ bình thản ngày đêm trước những đợi sóng ác liệt liên tục lấn xô bên mạn thuyền  !

Cơn đau quặn nơi bụng khiến cha sực nhớ đã tới giờ phải uống thuốc. Từ mấy tuần nay, chứng đau bao tử trở lại hoành hành gây khó chịu khác thường. Đứng lên rót ly nước lạnh để nuốt theo mấy viên thuốc mùi ngai ngái cỏ non, cha thầm nhủ mình phải ráng chặn đứng những lo âu nghĩ ngợi, bằng không dẫu có thuốc tiên cũng đành bó tay : tinh thần cùng với thể chất sẽ theo nhau đưa mình tới bờ vực thẳm.

Vừa nghiêm chỉnh nhắc bảo mình như thế, cha đã lại thấy dội lên trong đầu những ý nghĩ bất ổn, đen tối. Làm sao để dễ dàng thản nhiên trước thời cuộc được  ? Rõ đây là cái thời điểm mà cây muốn lặng nhưng gió chẳng ngừng. Biết làm sao để khôn khéo được mãi mà đối phó với ngàn muôn mưu thần chước qủy của đối  phương  ? Lúc này, người ta chỉ cần mang cái chiêu bài 'con dại cái mang' ra để quy trách nhiệm vào kẻ 'lãnh đạo tinh thần' mà bắt bẻ, mà tố cáo, mà vu oan giáng họa. Mấy câu 'tiên tri' của ông phó Lộc bỗng lại vang dội trong đầu cha. Chắc là sẽ xảy ra như thế rồi. Chả mấy nữa mà họ sẽ ra những luật lệ gắt gao hạn chế và kiểm soát sinh hoạt tôn giáo. Chúa ơi, rồi tương lai Hoa Lâm sẽ đi về đâu  ? Thế hệ trẻ mai này sẽ lơ là việc đạo nghĩa. Chương trình lao động tập thể cũng sẽ khiến cho người lớn chả còn thời giờ lo việc kinh lễ với tông đồ gì nữa. Thôi được, thánh giá Chúa gửi, con sẽ ráng vác mỗi ngày, nhưng con sẽ kiên tâm bền chí được tới bao lâu hả Chúa  ? Con sẽ ra sức theo gót Chúa để sẵn sàng chịu hành hạ tù đầy, nhưng đêm ngày con vẫn thấy mình còn quá yếu đuối, mỏng giòn. Chúa hứa sẽ ra tay đỡ nâng, nhưng con cứ sợ ở những phút giây gay cấn nhất, vào những lúc đầu óc căng thẳng nhất, mắt con sẽ mờ đi mà không còn nhìn ra được cánh tay Chúa nữa  ! Con trộm nghĩ cuộc tử  đạo tân thời nó còn thập phần khó khăn và đòi hỏi hơn cả những cuộc hành hình xử tử ngày xưa. Hồi lâu, cơn đau bao tử đã dịu, nhưng nỗi kinh hoàng trong tâm khảm như mỗi lúc mỗi gia tăng, khiến cha muốn chạy trốn cho thật xa thực tế. Cặp mắt lim dim xem chừng dìu cha vào cơn mộng để bước tới một cõi xa xôi huyền hoặc lạ thường. Có muôn vàn hình ảnh kỳ quặc. Có suối thác ầm ầm tuôn đổ. Có gập ghềnh khe núi, vực sâu. Tuy nhiên, tất cả khơi lên toàn là những cảnh tượng đe dọa hãi hùng. Tứ bề không có lấy một bóng người. Chỉ một mình cha bước đi lầm lũi đơn độc. Lâu lâu lại nghe từng tiếng hú vang rợn từ một góc không gian nào đó, đầy vẻ ảo não thê lương. Thế là, cũng trong mơ hồ, cha thấy mồ hôi toát ra như tắm. Nỗi khiếp sợ lại cộng chung với niềm thất vọng đắng cay. Tâm tư ước được xa tránh một hiện thực phũ phàng, nhưng rồi cõi mộng đây lại chỉ gợi thêm trăm ngàn ghê gớm xót xa.

Trong trạng thái bế tắc cùng đường ấy cha bỗng cố ru mình vào khung cảnh dịu đàng của tuổi thơ ngày trước, vào lúc đường đời còn nhẹ tênh, với chân sáo tung tăng giữa cảnh đồng quê nơi miền Bắc, với đôi tay còn thong thả để dễ dàng vươn rộng hai vai chưa một lần mang vác trách nhiệm người lớn. Rồi kế là những năm mài đũng quần nơi trường La tinh, dẫu với kỷ luật thật nghiêm minh, nhưng tháng ngày chỉ biết có ăn, học rồi chơi. Tới khi lên trường lớn, có nhiều buổi mệt nhoài với bài vở, nhưng tâm trí sau đó vẫn được thanh thản hồn nhiên để lên giường ngủ một giấc thẳng cho tới sáng. Rõ ràng chỉ duy có từ ngày khoác lên người chiếc áo và phẩm chức Linh mục, cha mới mỗi ngày mỗi thấm thía cái ý nghĩa của bổn phận và trách nhiệm. Càng thấm thía hơn ở những hoàn cảnh bất thường khó khăn như ở thời buổi hôm nay. Chả ai có thể ghé vai gánh đỡ. Chả ai có thể thay thế cho mình được lấy một ngày. Đôi vai tưởng chừng đang chịu sức nặng ngàn cân, khác nào chàng Atlas khốn khổ trong thần thoại Hy Lạp thuở nào. Người  thân thiết ruột thịt lúc này đã mỗi người mỗi phương, mà dẫu có ở gần cũng đành chịu bó tay. Phận tông đồ là thế. Đường lên núi Can vê lúc nào cũng chỉ là một mình với riêng một cây thập giá. Trần đời với ngoại cảnh cây cỏ lá hoa có cảm thông cho thì cũng chỉ là thầm kín ngậm ngùi và thụ động xót xa.

Càng nghĩ tới chuỗi thời gian trước mặt, cha càng thấy mù mịt tối tăm. Rồi mai đây, những cánh tay hỗ trợ là những cán bộ sinh hoạt tông đồ sẽ dần dà bị tách lìa, phân tán. Địch thù sẽ tạo ra muôn diệu kế để cô lập hoá đàn chiên. Thân cây nhiệm thể sẽ chả mấy hồi mà khô cằn vì thiếu nhựa sống. Luồng gió duy vật vô thần sẽ ào ạt thổi tới để xoay chiều đổi hướng tất cả. Tiếng kêu gào của mình lúc đó chỉ là tiếng rì rào của hàng lau lách giữa rừng già, hoặc như giọng thở than khoảnh khắc bị tan loãng vào sa mạc mênh mông. Niềm tin vẫn còn đó, nhưng biết lúc nào nó sẽ chẳng ra nhạt màu phai sắc  ! Mong sao con tim mình mãi đập theo nhịp điệu của ngày thụ phong, ngày mình khấn hứa sẽ bền vững trung kiên  trong niềm vui phục vụ. Trên bước đường sỏi đá với gai chông của người môn đệ, mình đã cố giữ cho đôi chân khỏi siêu vẹo qụy ngã cả hơn hai chục nằm trời nay, chả lẽ ở một khúc quặt ngặt nghèo như lúc này, mình đành chịu đầu hàng để tháo lui quay gót  !

Cha bất giác nhìn lên tượng Chúa chịu đóng đinh treo ở góc trái căn phòng. Đôi cánh tay Chúa xem chừng giang ra rộng hơn để ấp ủ chờ đón những tâm hồn đang sầu khổ như cha, kẻ đang được kêu gọi để thay Chúa chăm sóc đàn chiên tại Hoa Lâm này.

Nhưng rồi bỗng đâu chỉ trong một khoảnh khắc, cha thấy dội vang trong tâm tư một niềm ủi an siêu phàm, thanh khiết. Nỗi cô đơn như vơi nhẹ hẳn đi. Những thổn thức âu lo cũng tự nhiên dần biến mất. Cha tự hỏi phải chăng đây là lúc mình phải biểu lộ cái bản lãnh và sự can đảm của một kẻ trượng phu. Trong mơ hồ, cha mường tượng mình đang là một Lưu Bang được Chúa mượn bàn tay của Trương Lương tìm cách cột chân ở miền Hán Trung bằng cách đốt sạn đạo, để rồi giữa khung cảnh chật hẹp nghèo nàn phải nung đúc chí khí mà tìm cách vươn lên, đợi ngày ra tay tỏ mặt anh hùng trong vai trò Hán vương. Và rồi, cũng dựa vào câu chuyện cổ mà noi theo cái nhìn xa rộng, cái kế hoạch dài lâu của họ Trương, mình sẽ phải học đòi Hàn Tín để biết áp dụng bài học của những 'Bối thủy trận' trong cuộc đời : can đảm phấn đấu sẽ là phương thức duy nhất nếu không muốn thấy mình phải vùi thân dưới làn nước sông sâu. Mà ở đây cuộc phấn đấu can đảm cũng là đường một chiều giúp mình thoát khỏi cảnh đầu hàng thảm bại, ô nhục hơn cả cái chết bội phần.

Tiếng gõ cửa của bà bếp nhắc giờ ăn trưa đã tới bất thần làm cha quay trở lại thực tế. Mãi tới lúc đóng cửa bước ra bục thang gỗ nối liền với phòng cơm thuộc dãy nhà ngang nằm sát phía chân núi, cha mới sực nhớ ra hôm nay mình đã quên cả thời gian bởi không có bố già Hào kéo chuông nhà thờ giờ ngọ.


BỐN


Tường nhìn chằm chặp vào mắt cha Huân sau khi dằn từng tiếng để trả lời Linh mục phó xứ đặc trách các đoàn thể trẻ :

- Nếu cha nhất quyết duy trì ca đoàn thanh thiếu niên, con cũng sẽ kiên trì bên cha làm việc. Rồi ra tới đâu thì tới, chả nên vội vã đầu hàng bọn họ.

Đã hơn hai tuần lễ nay, ban công an xã chính thức chuyển lệnh đến nhà xứ yêu cầu nhiều điều liên can tới sinh hoạt nhà thờ, y như lời ông Lộc ước đoán. Tất cả sẽ phải thu gọn trong khuôn viên  thánh đường. Mọi cuộc rước xách tụ tập đều phải xin phép. Các hội đoàn tôn giáo cần được đăng ký với đầy đủ chi tiết đoàn viên cũng như ban chấp hành. Hội đồng giáo xứ và các vị trùm trưởng đều phải kê khai lý lịch rõ ràng và thỉnh thoảng sẽ được triệu đi dự những buổi học tập đặc biệt. Người ta còn đòi rút gọn các giờ kinh lễ 'cho nhân dân có đủ thời giờ tham gia lao động'  ! Gay go nhất là các lớp giáo lý căn bản cho trẻ em được yêu cầu dồn vào buổi hành lễ chủ nhật.

Giáo dân xôn xao bàn tán, nhưng rồi chẳng dám ra mặt phản đối. Bài học mấy ông trưởng hội đoàn bên xứ Hoa Viên bị bắt vẫn còn đó. Chống cưỡng nhưng rồi cũng chẳng đi tới đâu. Thế là tất cả trông đợi ở các cha. Và dĩ nhiên mọi sinh hoạt phải tạm ngưng chờ sắp xếp tính toán lại.

Chờ mãi không thấy phản ứng gì thêm của cha phó, Tường lại chậm rãi lên tiếng : 

- Về vấn đề tập hát, cha đã có ý định thế nào chưa  ? Tụ tập như vậy có cần phép đặc biệt không  ?

Cha Huân buột miệng :

- Lễ xong mình cứ ở lại nhà thờ tập dượt, cơi như phần phụng vụ bổ túc mà. Không lẽ tí chút gì cũng phải thưa trình sao  !

 - Còn cái vụ đăng ký tên tuổi đoàn viên, mình sẽ tính thế nào  ?

Cha Huân tỏ vẻ bất cần :

- Cứ đánh nước lờ đi là xong. Viện lẽ ca đoàn đâu có giống các đoàn thể khác : mình có bàn cãi thảo luận chi đâu  !

Tường gãi cằm :

- Cha thử trao đổi thêm với cha xứ coi. E rằng rồi mai ngài trách.

- Hỏi ý kiến thì đương nhiên ngài sẽ yêu cầu đăng ký. Nghe đâu đoàn Liên Minh Thánh Tâm, Legio Mariae và Hội Con Đức Mẹ, ngài đã ra lệnh theo đúng chỉ thị của chính quyền răm rắp cả rồi. Có  điều đa số các ban chấp hành đều ngần ngừ chưa muốn chịu khai tên tuổi danh tính. Có thể các sinh hoạt sẽ phải tạm thời khựng lại...

- Còn mấy đoàn trẻ cha phụ trách  ?

Cha Huân chặc lưỡi đáp :

- Ngài cứ yêu cầu thúc giục mình hoài. Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể thì dĩ nhiên mình đã nhờ anh đoàn trưởng lo giùm. Nghe nói cu cậu hơi run thì phải; chắc tại thêm cái mặc cảm là con 'lính ngụy'. Hội Ca Vịnh giáo xứ thì mình cũng ngỏ ý tính nước đánh lận con đen miễn khai trình, y như nhóm Lễ Sinh chỉ thuần túy lo việc phục vụ cung thánh.

Tường gật gù :

- Cha nói có lý, nhưng chắc họ thế nào cũng còn hạch hỏi. Riêng với đoàn Thiếu Nhi thì con nghĩ họ sẽ chú ý cách riêng.

- Khương có bàn bạc gì với Tường chưa  ? 

- Mọi khi anh đoàn trưởng hơi có chi lạ là gặp ban cố vấn ngay, nhưng lần này không thấy động tĩnh gì. Chẳng biết có phải vì Khương đang bối rối dữ hay chăng  !

Cha Huân tròn mắt :

- Tường nói Khương muốn bỏ cuộc  ?

- Con chẳng rõ, nhưng hẳn đây là thách đố khá lớn với ban thủ lãnh và huynh trưởng Thiếu Nhi.

- Mấy cô mấy cậu sợ bị bắt  ?

- Không hẳn là thế, nhưng chắc sẽ bị chĩa mũi giùi khá kỹ và chẳng thoát khỏi nhiều phiền toái nay mai.

 - Tường thấy sao  ?

- Cha dư biết đó. Chính quyền tìm mời cách gây dựng đoàn Thiếu Nhi Bác Hồ chi đó mà chưa thấy mống nào gia nhập. Trong khi ấy bên nhà thờ dùng mấy thanh niên thiếu nữ lôi kéo hết bọn trẻ vào đoàn thể đạo. Làm sao họ không căm giận để rồi tìm cách dọa nạt phá đám  !

Cha Huân cười :

- Đó đâu phải do lỗi của mình  ? Trẻ con nó thích đâu thì nhào vô đó. Mình có xúi giục cấm cản chúng vào đoàn thiếu nhi bên kia đâu  ! 

Tường xoa mạnh hai tay :

- Đương nhiên họ biết mình không cấm cản nên chưa lộ liễu bắt bớ tố cáo mình. Tuy nhiên với họ, cái tội tiêu cực thôi cũng đủ được ghi vào sổ đen rồi.

Cha Huân dịu giọng :

- Nghe nói trong xứ mình cũng có một số thanh niên gia nhập đoàn Thanh Niên Xung Phong của họ  ?

- Vâng có, nhưng khác nào như muối bỏ biển thôi. Luẩn quẩn đếm trên đầu ngón tay được mấy tướng nổi danh bụi đời bấy lâu, nay muốn thử lửa cuộc phiêu lưu mới, nhân thể lại được chính quyền tuyên dương, đề cao.

- Tường có nghĩ rồi ra nhóm đó sẽ đông  ? 

- Con tin rằng nay mai huyện sẽ phát động chiến dịch làm áp lực và bắt ép một số phải 'xung phong' vào đoàn, nhất là những phần tử thất nghiệp lêu lổng. Tuy nhiên, rồi cha sẽ thấy, phải đêm ngày lam lũ đào mương với thủy lợi, chuyện ăn uống lại quá kham khổ, dẫu có xung phong tình nguyện thật lòng cũng khó mà bền, chứ đừng nới tới mấy chàng bị bó buộc tham gia  !

Vừa tiễn Tường ra khỏi cửa thì cha Huân sực nhớ đến việc phải ra nhà thờ lấy Mình Thánh để tới trao cho người cháu của thày Hào ở khu Phê Rô đem đi nhân chuyến lên huyện thăm nuôi. Ai cũng biết bố già mong ước từng ngày được Rước Lễ. Quà cáp thì nhà xứ lo liệu hết, nhưng phải nhờ đến thân nhân của đương sự thì việc thăm nuôi mới dễ dàng.

Thế là lòng trí tưởng nhớ tới người tu sĩ trong tù, cha rảo bước như có ai đuổi phía sau. Vừa gõ cửa bước vào, cha đã vồn vã lên tiếng :

- Chị Thục đã sẵn sàng chưa  ? Lần này nên giấu Mình Thánh vào giữa ổ  bánh mì, may ra sẽ an toàn hơn mấy lần trước. Hy vọng bà bếp đã mua đủ những thứ thày xứ cần. Tội nghiệp ông già, chả biết lúc nào mới được tha về  !

Bà Thục bỗng ứa hai hàng nước mắt, xụt xịt một hồi lâu mới lên tiếng :

- Cảm ơn cha, tất cả đã sản sàng. Chút nữa con sẽ cùng người bạn cũng muốn ghé thàm thày ra đón xe lam ngoài lộ. Mong hôm nay họ sẽ cho phép vào một lượt. Cầu Chúa thương đừng để họ chuyển thày lên tỉnh hay đi đâu xa.

Nói xong, bà quay vào trong lau nước mắt, cố giấu những tiếng nấc nghẹn nơi cổ. Khóc được thì chắc vơi đi chút nào nỗi sầu buồn, nhưng thật tình bà không muốn để cha phó nhìn thấy. Goá chồng sớm, bà quyết định ở vậy nuôi đứa con trai độc nhất nay đã có vợ được ngót một năm. Dẫu thày Hào chỉ là người cậu họ, nhưng bà hết lòng thương mến coi như ruột thịt. Bà lại kính trọng thày như một vị chân tu khả ái. Lòng ngưỡng mộ đó phần nào tạo cho bà chút niềm tin và an ủi để an phận trong quãng đời còn lại. Có lần lên nhà xứ thăm, bà đánh bạo hỏi :

- 'Ông cậu' có lúc nào nghĩ rằng mấy người Cộng sản sẽ tìm cách bắt bớ mình không  ? Họ ghét đạo và các người đi tu lắm mà  !

Thày Hào đáp tỉnh bơ :

- Hơi đâu mà nghĩ tới chuyện ấy  Việc mình mình cứ làm. Ai yêu ghét mặc ai. Bọn Cộng sản chỉ là hạng lục lâm thảo khấu, nếu không phải lũ chó nhảy bàn độc.

Bà Thục hơi nhột :

- Xin thận trọng kẻo bức vách có tai. Dầu sao, ông cậu cũng cần giữ mình, lỡ có mệnh hệ nào thì thật khổ. Mà ít ra phải thương hai mẹ con côi cút này chứ, chẳng lẽ đành để chúng mồ côi một lần nữa sao  !

Nào ngờ câu nói của bà đã trở nên sự thật. Nỗi buồn đau dâng cao trong hồn bà tưởng chừng chẳng có khi nguôi, không ai hiểu thấu. Cứ nhìn dáng tiều tụy của bà, người ta cũng phỏng đoán được phần nào tâm tư bên trong. Có điều khác thường là bà Thục chỉ muốn ôm mối sầu riêng cho một mình mình, ngày đêm chôn kín nơi dạ nơi lòng, chứ không hề muốn hé răng than thở tâm sự cùng ai. Ngay cả với người con trai, bà cũng chỉ kể lể đôi chút về câu chuyện rủi ro đáng tiếc. Sáng hôm nay vì quá xúc động nên bà mới vô tình để rơi mấy giọt lệ trước mặt cha Huân như thế.

Từ lâu rồi, có cả tới gần chín mười năm nay, bà Thục muốn mượn hình ảnh ông cậu nhà tu thay cho bóng dáng người chồng quá cố. Lắm giáo dân trách móc thày Hào hay nóng tính, nhưng bà xem ra lại rất chịu loại tính khí đó vì nghĩ rằng đàn ông là phải như thế. Bà cũng thật ưa nơi thày cái nét khôi hài dí dỏm hiếm có, nhất là vào những lúc bố già pha trò mà gương mặt cứ tỉnh khô. Thương thì thương nhưng bà cũng biết giữ ý tứ lắm. Bổn đạo người Bắc thường không ưa họ hàng bà con quá gần gũi với thày với cha trong giáo xứ. Thành ra lâu lâu bà mới đặt chân lên bậc thang xứ đường, kỳ dư  thằng Khải sẽ phải làm trung gian biếu quà trao bánh.

Thày Hào cũng hiểu hoàn cảnh của hai mẹ con bà Thục và thực tình cư xử chả khác chi ruột thịt. Dĩ nhiên thày ít lộ cảm tình ra ngoài. Có gặp gỡ cũng chỉ là lời trao đổi vắn tắt. Nhưng thế cũng là đủ để tạo nguồn vui cho người cháu đêm ngày ấp ủ hình hài của một thứ thần tượng nhẹ nhàng trong đời. Càng ngày bà càng thấy cuộc sống hiến dâng phục vụ của ông cậu là như hướng đi của những bậc anh hùng, đầy can đảm và cao thượng. Thành ra, sẵn tâm hồn đạo hạnh cố hữu của gia đình, chiều hôm sớm mai nào bà cũng hiện diện trong giờ kinh lễ nơi thánh đường; để rồi cùng với sự có mặt trang trọng của thày Hào bên hàng ghế ngang cung thánh, bà thấy được an vui hơn dưới đôi mắt hiền từ của Chúa và bàn tay nhân hậu của Đức Mẹ.

Và cứ như thế thời gian êm đềm trôi, lặng lẽ như hồn bà. Mọi biến cố thăng trầm đến rồi đi, không để lại mấy ưu tư lo lắng, kể cả chuyện đổi đời cuối  tháng tư vừa qua. Miễn là bà còn được sống ở xứ đạo Hoa Lâm này, được nuôi dưỡng chút thương yêu nhỏ bé, tựa một đốm lửa le lói giữa rừng sầu cô tịch, nhưng đủ sưởi ấm con tim mình trong những tháng năm giá lạnh đường đới. Chút thương yêu thầm kín ấy đã được cộng chung với mối tình mẫu tử bình thường để cho bà thấy tháng ngày còn có ít nhiều ý nghĩa.

Cho đến cách đây mấy tuần lễ, cái tin thày Hào bị bắt đã bất ngờ trở nên tiếng sét chấn động tâm hồn bà, tựa một chuyện gì ghê gớm nhất trong đời vừa xảy ra, để cả không gian lẫn thời gian hoá ra ảm đạm nặng nề khôn xiết. Ngày tháng bỗng như dài ra thê thảm và đêm ngủ được dệt đầy những ác mộng kinh hoàng.

Tất cả những đau buồn ấy đã cô đọng lại trên nét mặt biến thay khác thường của bà khiến cha Huân phải ngỡ ngàng sửng sốt, dẫu cho cha là người, ngoại trừ thày Hào ra, đã từng hiểu bà hơn bất cứ ai khác ở Hoa Lâm này. Cha đã nhiều phen cơ hồ đọc được hết tâm tư qua những thái độ cử chỉ và ánh mắt của bà, nhất là sau những buồi bà lên nhà xứ gặp bố già.

Thế là sáng nay trên suốt cả quãng đường từ nhà bà Thục trở về nhà xứ, cha cứ nghĩ ngợi lan man. Thương cho thày Hào thì ít mà xót xa cho bà Thục thì nhiều. Rõ ràng nguồn vui của bà đang tùy thuộc hoàn toàn vào một người khác. Biết tới bao giờ mới dịu bớt được nỗi âu sầu lắng lo để bà ngủ cho yên một giấc và ăn một bữa cho ngon  !

Cha khẽ đẩy cửa ngang nhà thờ để bước vô. Giờ đọc kinh phụ trội của mấy bà Dòng Ba sau thánh lễ dường như đã chấm dứt, nên bầu không khí hoàn toàn vắng lặng. Chỉ nghe tiếng gió vì vèo thổi qua khe cửa sổ vọng vào.

Qùy khuất sau chiếc cột lớn ngay hàng ghế đầu, cha lim dim cặp mắt nhìn lên phía cung thánh. Lâu lắm cha lại mới có dịp cầu kinh từ dãy ghế giáo dân. Bỗng đâu cha thấy mình nhỏ bé như mất hút trong lòng thánh đường mênh mông.

Gần hai khắc đồng hồ trôi qua, cha thấy tâm tư phần nào được nhẹ nhõm hơn. Cha ý thức rõ lắm, Chúa vẫn hiện diện ở đây cho niềm tin của mình được có nơi cậy dựa, nhưng xem chừng Chúa im lặng quá để đoàn tín hữu phải xao xuyến lao đao trước cảnh gió đập sóng xô. Chúa chắc chả muốn làm phép lạ bên ngoài nữa. Ngài đang đòi phép lạ thầm kín mỗi người phải tự làm lấy trong tim trong óc mình. Đã một lần Ngài tiên báo những dấu hiệu của thời thế mạt, cánh chung. Biết đâu lúc này chẳng đang là khởi điểm để trần gian đi vào đoạn kết  ! Mình sẽ phải làm gì đây  ? Nhất định câu đáp sẽ là dứt khoát không bao giờ đầu hàng. Trái lại mình cần phải kiên trì chiến đấu. Cộng sản có thể là một hình thức mới của sức mạnh qủy vương, nhưng dù ma hay qủy cũng làm sao qua mặt nổi thần lực Thiên Chúa  ! Không. Ngàn lần không.

Trong ý thức lờ mờ về thời gian, cha bỗng hồi tưởng lại cả lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam, với truyền thống lúc nào cũng bất khuất trước bạo lực. Bây giờ chắc phải có những Quang Trung, những Lê Lợi và Trần hưng Đạo mới. Mình không làm chính trị, không tham gia quân sự, nhưng mình phải nuôi dưỡng tinh thần đấu tranh nơi giáo hữu. Thày già Hào đã nêu một gương sáng, nhất định sẽ chẳng uổng công vô ích. Nếu quả thật đây là những tháng ngày chót của thế giới mình lại càng phải can đảm coi nhẹ cái chết. Nghĩa là chả nên thụ động ngồi đó mà chờ Chúa Mẹ hiện ra để khoá tay chặn đường bọn thù địch của Giáo hội đang tung hoành.

Nhìn vào chính bản thân mình, cha cũng chưa quên được những năm đầy nhiệt huyết hãng say của thời gian chủng viện trước đây. Cùng đồng bạn, cha đã từng nhất định phải tìm mọi cách đạt cho được phần thắng trong các cuộc tranh đua thể thao, văn nghệ cũng như học vấn. Câu thành ngữ Pháp văn 'vouloir c'est pouvoir' đã là châm ngôn hàng đầu để cha lo luyện rèn ý chí.

Thế rồi hai năm đầu ra làm việc với chức vụ giám học một trường do nhà dòng phụ trách tại Gò Vấp, cha đã tận  lực đem ra thực hành tất cả những điều ấp ủ từ học viện. Tại đây, từ ban giáo sư cho tới mới lứa tuổi học sinh đều phải nể cha qua những chương trình và quyết định thẳng thắn, dứt khoát. Ngày cha được lệnh bề trên thuyên chuyển về làm phụ tá cha xứ Hoa Lâm, nhiều người trong trường mới ngẩn ngơ tiếc, dẫu cho có một số thỉnh thoảng đã lên tiếng chỉ trích rằng cha quá cứng rắn.

Những ngày tháng tiên khởi lăn lộn với việc mục vụ ở đây cũng tạo nên thách đố cho cha không ít. Lũ trẻ ở các xứ đạo Bắc di cư không luôn hiền lành dễ bảo như cha nghĩ. Đám huynh trưởng thì quen sinh hoạt kiểu tà tà. Thành ra phải mất cả gần nửa năm trời cha con mới thông cảm và làm việc ăn khớp với nhau. Dĩ nhiên là cha phải thắng cuộc. Kỷ luật dần dà được áp dụng triệt để. Các chương trình và kế hoạch cũng nhờ đó mà được thi hành nghiêm chỉnh. Để rồi trước dịp mất nước, cha đã được đề cử làm tuyên úy giới trẻ toàn hạt Đà Lạt-Tuyên Đức.

Đầu óc như còn lạc lõng vào quãng thời gian qua, cha bất giác ngó quanh theo hàng tường hai bên lòng nhà thờ. Những bức ảnh to tướng mô tả các diễn tiến của mười bốn chặng đường khổ nạn của Chúa bỗng đâu tạo cho cha một ý nghĩ sợ hãi viên vông, trái tim se lại và nghe ớn lạnh nơi hai bên thái dương. Cha tự hỏi phải chăng mình đang khiếp sợ vì phải đi vào con đường Chúa đi xưa. Mong rằng không phải thế, nhưng quả thật đang có một cái gì xem chừng muốn níu chân cha lại, cho tâm tư lúc này trở nên vô cùng khác lạ. Trước đây, trận chiến nội tâm thường được tập trung vào việc bảo vệ những lời khấn hứa của ngày lãnh nhận thánh chức. Chuyện phải lưu tâm hàng đầu vẫn là làm sao cho cuộc sống độc thân tận hiến mãi luôn được ý nghĩa, kẻo rồi có ngày bị những Dalila hoặc Salomé của thời đại mới làm điên đảo trí lòng mà đổi thay, mà phản bội. Thế nhưng cuộc giao tranh của tinh thần giờ đây đã mang một hình thái hoàn toàn mới mẻ, khiến mình chưa biết sẽ phải định hướng và bố trí lại đầu óc ra sao. 

Đột nhiên cha đứng phắt dậy như để thấy rõ mình đang thực sự tỉnh táo. Thật ra cha biết mình không mơ, nhưng tâm trí thì rất hoang mang, xáo trộn. Dồn dập những câu hỏi từ đâu xâm nhập tra vấn : Tội gì phải vất vả dấn thân quá mức  ? Cần chi tạo phiền phức hiểm nguy cho chính cuộc đời mình  ! Nhất là ở hoàn cảnh phức tạp hôm nay, giáo dân đang cần Linh mục hơn bao giờ hết, tiên vàn là phải bảo toàn tính mạng để tránh bao thiệt thòi tai hại theo sau. Người ta sẽ không để cho ai trách móc về chuyện bách hại và tấn công tôn giáo, nhưng họ sẽ tìm cách tống giam các thành phần lãnh đạo, viện cớ chống đối với phản động...

Và rồi những cảnh tượng bi quan đe dọa liên tục diễn ra trong tâm trí khiến cha thấy như ngộp thở. Hình ảnh các Linh mục tuyên úy quân đội đang bị đày ải hành hạ, nào có ai làm được chi để bênh vực cứu vớt đâu  ! Bao nhiêu cha khác nữa, một khi đã bị nhà nước gán cho cái nhãn hiệu thù địch, tất cả đều tuyệt vọng im lìm trong các trại giam. Khổ nỗi  là người ta rêu rao các ngài như những tội phạm chính trị, gây hoả mù và hoang mang nơi quần chúng. Thế là xong, chưa kể tới những lời bình phẩm cho rằng các ngài thiếu khôn ngoan tế nhị, can đảm không đúng lúc đúng chỗ. Trong khoảnh khắc hình ảnh bố già Hào đổi thay từ chỗ đáng thương thành ra đáng trách. Cái can đảm hào hùng  bỗng trở nên cái ngông nghênh khờ dại. Đây chắc phải là một bài học cho mình. Những giọt nước mắt sầu tủi của bà Thục phải chằng là những lời cảnh cáo dặn dò để mình biết nhìn rõ thực tế. Chi bằng từ nay cứ thủ khẩu như bình, giả ngây giả dại là hơn cả. Mọi sinh hoạt chỉ nên thu hẹp lại tới chỗ tối thiểu. Lễ lạy kinh hạt cũng chỉ cần phần căn bản giản dị thôi.

Cũng trong niềm hoang mang cùng cực cha đột nhiên thấy thương hại cho chính bản thân mình. Nghe quanh quất không gian đều âm vang những chán nản với tuyệt vọng. Chúa Mẹ vẫn còn đấy, nhưng giờ này như xa với quá. Trái lại, áp lực qủy vương thì đang trấn áp tứ bề. Hay là từ trên cao Chúa đã thất vọng với nhân  trần rồi  ? Nay mình có vẫy vùng cố gắng cách mấy thì cũng chỉ như hạt cát ném vào sa mạc. Đâu ai sẽ sát cánh với mình để lội ngược gióng nước đời phũ phàng cuốn trôi như thác lũ  ? Cha xứ kể như đã dậm chân dừng bước. Tốt hơn cả chắc là mình nên ngồi yên mà khoanh tay chờ đợi, bởi ưu tiên lúc này là được vững thế an toàn. Mình không cho mình thì ai sẽ lo đây  !

Tự nhiên cha thấy lồng ngực như bị đè nặng khác thường, rồi hai bên đầu nhức tựa búa bổ và đôi bàn tay cũng run rẩy mất hẳn tự nhiên. Qua cảnh chập chờn tỉnh mê của tiềm thức, cha bỗng thấy mình như hệt nhân vật Gióp trong Cựu ước xưa, ở lúc bị Chúa dùng bàn tay qủy ma thử thách căm go nhất, và kế đến lại giống Êlia vào giờ phút tuyệt vọng trên đường lên núi Horeb. Chờ trông mãi mà bóng Chúa cứ mất hút nơi chân trời xa thẳm đâu đâu, khiến bầu khí càng thêm thê lương, não nề.

Sợ kéo dài những khoảng thời gian kinh hoàng này sẽ rất tai hại, cha bái gối  rồi vội tiến ra cửa bên hông trái để quay về nhà xứ. Tiếng cánh cửa vô tình dập mạnh sau lưng làm cha như bừng tỉnh. Làn gió mát cũng góp thêm chút sinh khí khiến cha liên tục hít hà từng hơi. Mấy cụm mây bàng bạc lững lờ trôi trên nền trời trắng đục nhắc nhở mùa thu đã sang thay chỗ cho những ngày hè nắng ấm. Nhịp sống của dân chúng xem chừng đã chùng xuống hơn vì vắng thưa hẳn những tiếng cười đùa của bày trẻ trong xóm thôn.

Vừa bước lên con dốc đầu nhà xứ thì cha đã thấy Tường đứng chờ sau cây cột ngoài hành lang gần phía cửa phòng mình; rồi bóng Khương cũng xuất hiện với khuôn mặt đầy vẻ đăm chiêu. Dường như cả hai đã đứng chờ đấy từ khá lâu. Cha lên tiếng :

- Hai tướng lên bất ngờ quá. Tội nghiệp chắc mỏi chân lắm rồi. Mình có chút việc phải chạy ra ngoài. À mà sao sáng nay cả hai cùng rảnh rỗi giống nhau thế  ? 

Khương vừa bước lên bậc cửa dẫn vào phòng khách cha phó vừa nói với giọng hơi lạ :

- Mấy hôm nay con theo anh bạn thân lên Đà Lạt để được giới thiệu vào làm tại tổ hợp thủ công xuất khẩu khu Chi Lăng. Sáng nay vừa thức dậy thì gặp anh Tường ghé nói đôi ba câu chuyện.

Cha Huân đã như đoán được đề tài của Tường, nhưng vẫn muốn hỏi thăm về hoàn cảnh anh đoàn trưởng Thiếu nhi Thánh thể :

- Khương có ý định rời Hoa Lâm  ?

Khương ngần ngừ :

- Nào con đâu muốn bỏ xứ đạo đã bao năm vui sống  ! Ngặt một nỗi lúc này tụi con như bơ vơ lạc loài cả đám. Chả biết tương lai sẽ đi về đâu  !

- Khương nghĩ họ sẽ nhận đơn vào làm  ?

- Xem chừng chẳng có mấy hy vọng.

Cha Huân nhíu cặp mắt : 

- Sao thế  ?

- Họ hẳn đánh hơi thấy cái mác gia đình nguy to tướng của con. Dẫu ông cụ chỉ là thiếu úy quèn cũng đủ để họ cho ra dìa rồi. Anh bạn thân có ông bác làm lớn trong tổ hợp, đã hết lời bảo đảm về con, nhưng lúc ra về anh hơi thất vọng khi diễn tả cái phản ứng tiêu cực của người bà con.

Cha Huân như xót xa :

- Thế bây giờ tính sao  ?

Khương nhún vai nhìn Tường : 

- Chắc rồi đành 'vui thú điền viên' Bên mấy ruộng rau với gia đình thôi. Ông già đi cải tạo chả biết ngày nào về. Chuyện học hành của tụi con thì hiển nhiên sẽ dang dở rồi. Chỉ e rồi mai đây họ ép đi kinh tế mới bên sông Ka Đôn thì tất cả là hết.

Tường nhìn ra cửa nói bâng quơ :

- Tương lai cả đám chắc sẽ bế tắc khủng khiếp cha ạ. Mai đây hẳn chỉ còn chuyện cuốc đất với thủy lợi. Riêng cái  nghề gõ đầu trẻ của con rồi cũng chả mấy mà ném vào xó nhà.

Cha Huân bỡ ngỡ :

- Tường cũng thất vọng  ?

Tường xoay người nói lớn :

- Cha có nghe câu ca dao phổ thông nhất lúc này chưa  ?

Cha Huân trố mắt :

- Câu gì  ?

Tường thong thả đọc :

- Cặp dép râu dẵm nát đời xuân trẻ. Mũ tai bèo che khuất nẻo tương lai.

- Ai đặt ra câu này  ?

- Con đâu biết; chỉ thấy xó nào cũng có kẻ nhâm nhi than thở mấy câu tương tự.

Khương đưa tay gãi cằm :

- Thôi, chuyện đó xin tạm gác lại. Chúng con lên gặp cha để bàn việc về đoàn Thiếu Nhi. Nhưng trước khi vào đề, cho con hỏi nhỏ thôi : Có phải cha vừa gặp một chuyện gì rắc rối phiền phức lắm không  ? Lúc cha bước lên đầu dốc nhà xứ nét mặt cha có vẻ ưu tư bất thường...

Cha Huân hơi bối rối :

- Có chi đâu. Tớ mới ghé nhà thờ ít phút. Có thể lúc bước ra hơi choáng váng vì cơn gió lốc đổi mùa.

Tường như tích cực :

- Mong cha không gặp biến cố chi đáng kể. Kỳ dư, cha có tụi con bên cạnh. Cha con sống chết có nhau.

Khương nới thêm : - Vâng, cha cứ an tâm. Đâu rồi sẽ vào đó Tường và con có tâm sự với nhau về đoàn. Chắc chả nên đăng ký cha ạ. Mình cứ coi như việc họp và sinh hoạt chỉ là việc nối dài của giờ kinh lễ.

Cha Huân dáng suy nghĩ :

- Họ yêu cầu kê khai danh sáchnhững người dạy giáo lý. Mà chỉ còn các trưởng đảm nhiệm công tác này. Hai cậu tính sao  ? 

Tường chậm rãi :

- Mình cứ thử im lặng coi họ tính sao. Nếu hỏi thì nói rằng các anh chị lớn giúp mấy em nhỏ hiểu lời cha giảng trong nhà thờ thôi, sau đó rồi tùy nghi sẽ liệu.

Khương nối tiếp :

- Mà cha à, lễ bổn mạng đoàn Trinh Vương của mình đã gần kề rồi. Tụi con định xin cha cứ cho tổ chức ngày trại như năm ngoái.

Cha Huân trầm ngâm :

- Mình sẽ ra xã xin phép  ?

Khương mạnh bạo :

- Sân nhà thờ cũng chỉ là khuôn viên thánh đường, mình có quyền làm gì thì làm chứ  !

Tường như phân bua :

- Kệ nó, mình cứ thử cha ạ. Nếu họ tới ra lệnh cấm thì mình cho giải tán ra về. Đụng tới cái mối liên hệ đạo đời này, mình cứ nên giả đò không biết vẫn là hơn. Gia dĩ, Cộng sản nó thủ đoạn thì mình cũng cần biết mánh mung chút đỉnh.

Cha Huân khẽ gật đầu. Nhưng rồi lúc Tường và Khương đã ra về, cha lại thấy trong đầu ùn ùn nổi lên những tư tưởng giằng co lưỡng lự. Đã đành mình không nên lo sợ rụt rè quá đáng, nhưng thế nào mới tránh khỏi bị tiếng là liều lĩnh bốc đồng đây  ? Hướng đi nào sẽ thực sự là khéo léo, là khôn ngoan  ?

Ngày hôm đó tự dưng như dài hẳn ra, và rồi ban đêm giấc ngủ đã được pha trộn nhiều cơn mộng mị lạ thường.


NĂM


Tường uể oải dựa lưng vào bờ vách gỗ khá dày ở cuối căn phòng lớn dùng làm lớp giảng huấn cho tuần lễ tu nghiệp giáo viên cấp hai của toàn tỉnh Lâm Đồng. Đây là khoá tu nghiệp đầu tiên sau ngày đất nước đổi chủ, nên phần học tập chính trị được nhấn mạnh đặc biệt. Bởi tỉnh Tuyên Đức được sát nhập vào với tỉnh Lâm Đồng, nên cả ngàn người được dồn vào hội trường trung tâm sư phạm thuộc cơ sở Lycée Yersin cũ bên kia bờ hồ Xuân Hương. Nhờ khung cảnh Đà Lạt mát mẻ, bầu không khí cũng bớt phần ngột ngạt khó chịu, nhưng từng chuỗi bài thuyết trình dài lê thê lãng nhách đã khiến hầu hết các giáo chức thay nhau ngáp dài.

Chương trình tu nghiệp mới qua được hai ngày mà tưởng chừng đã khởi sự cả tuần lễ nay. Tường ngồi đếm đốt ngón tay : thứ hai, thứ ba... chả biết chừng nào mới tới sáng thứ bảy để được mãn khoá ! Hẳn ngày đó bà con đều mệt nhoài người. Liệu rồi về nhà có còn đủ sức mà khai giảng niên khoá mới vào đầu tuần tới theo quyết định của toàn tỉnh không  !

Trên bàn diễn giảng, thuyết trình viên cứ thao thao nói như cái máy. Nào là thời đại cách mạng giải phóng, các giáo viên cũng phải có tinh thần mới, theo tiêu chuẩn mới. Nào là phải thấu triệt cho nằm lòng ba giòng thác cách mạng đã được Đảng đề ra. Nào là ghi tâm khắc cốt lời Bác kính yêu đã dạy về trăm năm trồng người. Khổ quá, ai chả biết trồng lúa tính một năm và trồng cây thì tính đến mười năm  ! Riêng cái mục trồng người dĩ nhiên phải căn cho cả một đời. Bách niên thụ nhân ấy mà  ! Sách Khổng Nho đã dạy  từ hàng ngàn nằm trước. Cứ làm như bác Hồ là nhân vật đầu tiên sáng tác ra không bằng  ! Đặc biệt với Tường, ở những ngày còn là sinh viên bên viện đại học, hai chữ Thụ Nhân là biệt hiệu của nhà trường nên chàng nào còn xa lạ chi với nội dung và ý nghĩa. Bây giờ, cán bộ lại đem bóp méo để giảng giải việc trồng người theo đường lối giáo dục Mác Lê duy vật vô thần, thành ra mỗi tiếng mỗi câu như đâm như chói vào tai chàng.

Tường tự hỏi, rồi chút nữa vào giờ hội thảo tiếp thu theo sau buổi thuyết trình, chả biết mình có còn nhớ được điều gì để đem ra thảo luận chăng. Nhất là kế đó phải làm tờ báo cáo thâu hoạch, thật cả là một gánh nặng hãi hùng. Có lẽ rồi đành phải cố tưởng tượng viết theo ý người nói, với cách thức 'giả hình' cho xong vậy.

Đã có lúc bực bội chán nản quá, Tường định bỏ cuộc để rồi về theo Dung xoay nghề buôn bán 'chui' sống qua ngày. Chàng trộm nghĩ cứ cái ngữ đây, vài tháng lại một lần tu nghiệp kiểu này chắc mình  chết sớm quá  ! Gay cấn hơn nữa là rồi mai ra về buộc lòng phải áp dụng cái lối giáo dục một chiều thiền cận này cho lũ con em vùng Hoa Lâm thì chịu sao nổi  !

Bất giác chàng nhìn ra ngoài qua khung cửa sổ. Trời cao nguyên mùa thu bỗng đâu gợi lại nét thơ mộng và lãng mạn quen thuộc ngày nào, khiến Tường như ngây ngất để rồi chạnh nhớ đến Dung. Vừa nhớ, chàng lại vừa thấy pha chút thương hại nàng. Lúc này Dung đã phải dứt khoát từ giã bút nghiên. Chắc hẳn mấy tuần nay nàng đang băn khoăn hồi hộp lắm trong chuỗi ngày chập chững bước vào cuộc lăn lộn sinh kế. Nàng tự an ủi vì có người dì đã vững nghề chợ trời ở Sài Gòn và hứa sẽ hết lòng đỡ nâng hướng dẫn để làm quen với chuyện mua đi bán lại kiếm lời. Thực sự Dung đã đi về được dăm ba chuyến rồi, và có lẽ lần nào cũng đưa về được ít áo quần và vật dụng để cùng với mẹ đi chào hàng nơi bà con lối xóm, hoặc gửi nhờ bán ở Đà Lạt. Tường còn nhớ như in lời Dung bảo chàng trước dịp đi dự tuần lễ tu nghiệp :

- Dung nhất đinh sẽ làm ăn nên cho Tường coi. Rồi đây nghề của Dung sẽ khám khá hơn cái nghiệp gõ đầu trẻ của Tường.

Giữa lúc bỡ ngỡ, Tường cười mỉm :

- Cầu chúc Dung được như ý nguyện. Nhưng Dung chớ quên rằng người ta sẽ tìm hết cách phá 'mộng vàng' của Dung.

Dung tròn mắt :

- Người ta là ai  ?

- Là mấy ông Vẹm chứ còn ai vào đó nữa !

Dung tủm tỉm :

- Kệ người ta. Dung sẽ không ngán. Miễn sao Tường không phá là được !

 Rồi cả hai cùng cười, cùng hiểu nhau, với chút xót xa nhẹ nhàng và chút lo âu thầm kín. Tuy nhiên, cả hai cùng muốn lạc quan để vươn lên mà sống còn. Nơi ánh mắt, cả Tường lẫn Dung đều như ngầm khích lệ nhau để giữ vững niềm tin. Tin vào đôi tay Chúa quan phòng, vào ý chí mình và dĩ nhiên là tin vào nhau.

Tường cũng rất hãnh diện về Dung qua những lần nàng góp ý kiến cũng như các phản ứng khéo léo sau một số biến cố bất thường, khó khăn. Cụ thể nhất là buổi cắm trại mới đây của đoàn Thiếu Nhi nhân dịp lễ Maria Nữ Vương bổn mạng. Như cha Huân dự đoán, xã đòi đoàn phải có phép mới được tụ họp các em như thế. Lúc ông phó thủ trưởng công an đến hung hãng định bắt Khương mang đi Dung đã bình tĩnh đứng ra bênh vực rồi đổ lỗi cho chính quyền không ra lệnh rõ ràng nên sinh ra hiểu lầm. Nàng trình bày khéo léo đến độ mấy anh công an phải há miệng ra nghe rồi gật gù chịu rằng Dung nói phải. Dĩ nhiên xã bỏ qua, nhưng yêu cầu sớm giải tán các em và đòi ngưng những sinh hoạt như thế cho tới khi có lệnh mới.

Lúc ngồi lại duyệt xét công việc và nhận định ưu khuyết điểm xong, Tường lên tiếng hỏi Khương : 

- Khương nghĩ rồi tương lai tụi mình sẽ đi tới đâu  ?

Khương cười xót xa :

- Chắc sẽ đi tới Hà Nội là cái cẳng  !

Tường mở to đôi mắt :

- Cậu muốn nói tất cả sẽ chui vào chung một nhà tù vô sản  ?

- Chứ còn hướng nào nữa đâu. Họ đang cố lùa mình vào con đường một chiều. Tớ mường tượng miền Nam đang trở thành nửa sở thú thứ hai chạy dài cho tới mũi Cà Mâu. Thật là nản, chưa sang sông mà đã đắm đò.

- Khương có nghĩ tới một giải pháp  ?

- Cho đoàn Thiếu Nhi  ?

- Cho mọi chuyện.

Khương đưa tay gãi trán :

- Một phần, về chuyện đoàn thể thì họ cấm đoán, một phần khác, như cậu biết, tình trạng riêng của mình chắc chả còn cho phép tung hoành gì nữa. Chó cùng rứt giậu, nhưng mình cùng thì chẳng kiếm ra cái giậu nào để rứt  ! Lại nữa, các cụ bảo đói ăn vụng túng làm liều, mà mình nay biết ăn vụng ở đâu, làm liều thế nào  ?

Tường hạ giọng :

- Cậu nghĩ gì về phong trào Phục Quốc ?

Khương lắc đầu :

- Mình không lạc quan chi cả. Có lạc thì chỉ là sợ lạc vào bát quái trận đồ của chính bọn qủy sứ này. Tớ không muốn mang tiếng là kẻ khinh thế ngạo vật. Thực sự chỉ thích cái gì thực tế. Việt Nam lỡ bị nằm trong nước cờ đổi chác của mấy ông cường quốc, mà bây giờ ông Mỹ đã quyết định cuốn cờ ra đi, dễ gì họ lại muốn dây mình vào lần nữa. Thành ra mình vào rừng mà không có khí giới và tiền bạc từ bên ngoài giúp, làm sao thành công cho nổi  ! Nếu cần làm Lê Lai cứu chúa, chắc chả thiếu kẻ tình nguyện lúc này, nhưng rồi ai sẽ là ông Lê Lợi để có sức gây dựng lại cơ đồ đây  ?

- Thế nghĩa là....

- Là vô kế khả thi, tớ chỉ còn biết lấy cán cuốc làm... tảo sầu tri kỷ, và rồi chờ mong ở cái tương lai thăng tiến cần lao, à quên lao động vinh quang của mình.

Tường ngao ngán nhìn về phía xa :

- Bao giờ mới giải cho xong mối oan cừu này để xã tắc lấy lại được an vui  !

Khương hắng dặng :

- Đạo trời mầu nhiệm, ai biết được ngày mai  ! Thế giới như chiếc đèn cù, thăng trầm nối tiếp. Mình chỉ muốn an phận, dẫu là phải đeo đẳng kiếp này cho tới ngày trở về cát bụi. Thực tình mình chả tin dị đoan, nhưng nếu nói theo kiểu mấy ông thày bói, mình có sao tử vi ở cung mệnh đang sa hãm địa, thành ra tháng năm tương khắc, khó mà hoá giải lúc này được.

Tường há miệng kinh ngạc :

- Hôm nay Khương quá bi quan  !

Bi mà làm gì  ? Nghĩ sao đành nói vậy thôi. Triết lý của mình về cuộc đời là thế. Gia dĩ, mình là con nhà có đạo, niềm tin duy nhất là còn có Chúa trên đâu, cố giúp nhau giữ cho thân cư phúc đức, biết đâu sẽ lại chẳng có một ngày trời đất đổi thay  !

Chia tay Khương một hồi lâu mà Tường vẫn như thấy tâm tư ngậm ngùi chua xót. Chàng thầm khấn nguyện cho người bạn tốt bụng luôn giữ được tâm hồn trong sáng thanh thản giữa cảnh đời nghiệt ngã hôm nay.

Sau dịp lễ, cha phó xứ Hoa Lâm đã là người gặp lắm chuyện rắc rối nhất. Lệnh đòi cha mỗi sáng thứ hai phải lên văn phòng xã tường trình về những sinh hoạt của cả tuần lễ vừa qua. Sau khi cho giải tán đoàn trẻ, công an còn kéo lên nhà xứ hạch sách hăm dọa đủ điều. Điều khổ tâm nhất cho cha Huân là không hề được cha xứ lên tiếng bênh vực ủng hộ; trái lại trong bữa ăn chiều ngài còn tỏ vẻ cằn nhằn cự nự, ngụ ý nhẹ trách cha phó chỉ thích làm việc theo hứng khởi riêng.

Tường mau nhận ra được nỗi ưu tư của cha nên hết lời ủi an hỗ trợ. Chàng quy lỗi nơi mình và Khương đã nhận định không đúng để rồi cố vấn cho cha tổ chức ngày trại, khiến gây lắm chuyện phiền phức. Nhưng rồi Tường vô cùng bỡ ngỡ khi thấy cha Huân vẫn nhất định lập trường cũ :

- Mình chả có gì để ân hận hối tiếc cả. Lúc này, ít ra cũng phải tỏ cho mới người thấy rằng mình không ngán tụi Cộng sản. Được đằng chân nó lân đàng đầu. Vừa phải thôi chứ, già néo đứt giây, có ngày dân chúng sẽ nổi lên chống đối.

Tường ngần ngừ một lát, rồi như muốn giúp cha phó tìm ra một lối đi trung dung đỡ phiền hà, nhẹ nhàng lên tiếng :

- Mình đang là kẻ chiến bại mà cha  !  Đồng ý rằng chớ nên chưa gì đã sợ hãi rồi ngồi bó gối, nhưng con tưởng ở cái thế lúc này, hay nhất vẫn là tùy cơ ứng biến. Giờ đây, mình chớ nên quá găng với họ kẻo rồi chỉ nhận lãnh những thua thiệt mà thôi.

Cha Huân nắm chặt hai bàn tay :

- Lúc nào đó mình sẽ phải cho họ biết cái bài học dân chúng đập bọn linh Ngự Lâm Quân gần hai chục năm về trước.

Tường tròn mắt :

- Chuyện Ngự Lâm Quân nào, thưa cha  ?

- Lâu rồi, chuyện xảy ra vào những ngày đầu mới gây dựng nên trại định cư Hoa Lâm này cơ. Lúc đó, trên Đà Lạt còn có bộ chỉ huy Ngự Lâm của Bảo Đại. Họ ỷ quyền ỷ thế hung hăng đi tới các trại có dân di cư Bắc việt để cưỡng ép vào lính, biện luận rằng vùng đất này thuộc Hoàng Triều Cương Thồ, chả thèm thông báo gì cho văn phòng xã ấp hay tham khảo ý kiến chi của các vị lãnh đạo tôn giáo cả. Thế là dân được 'bật đèn xanh' để nhất tề nổi dậy.

Tường càng thêm ngỡ ngàng :

- Chắc kết quả ghê gớm lắm phải không cha  ? 

- Lính chạy… có cờ, để lại mấy xác chết. Chính quyền tỉnh phải về can thiệp dàn xếp mãi mới xong.

Ngẫm nghĩ hồi lâu, Tường lại chậm rãi nói :

- Tình hình lúc này chắc khác nhiều cha ạ. Cộng sản họ sẽ bênh nhau. Bây giờ mình như cô thân cô thế, chả còn biết trông vào ai để kêu cứu. Mà có lẽ các xứ đạo khác cũng đành tạm lép vế như vậy thôi. Chi bằng cứ bình tâm chờ thời thế coi sẽ biến đổi ra sao rồi tùy mà tính.

Thở dài một lúc rồi cha Huân quay qua Tường :

- Riêng phần Tường thì sao  ? Vẫn theo đuổi nghề dạy học phải không  ? Tường có nghĩ rồi sẽ bị làm khó dễ  ?

Tường nhìn ra xa :

- Chưa rõ rồi sẽ đi tới đâu cha ạ. Nay mai thế nào cũng được biết thái độ của hiệu đoàn. Còn vụ dạy học thì con cũng cứ thử tiếp tục, bởi chưa tính ra được chuyện chi khác thay thế, vả đó  cũng là hướng đi con ấp ủ từ lâu. Chỉ e rằng ít nữa sẽ phải nhồi vào đầu lũ trẻ những tư tưởng vô thần một chiều kiểu Mác Lê. Lúc đó chắc hẳn chỉ còn nước tìm cách giã từ, trước khi bị chính họ đuổi ra.

- Bao giờ bắt đầu năm học mới  ?

- Cuối tháng này, các giáo chức trung học như con sẽ đi tu nghiệp một tuần trước khi khai giảng niên khoá sắp tới. Đương nhiên bà con sẽ được nhà nước giảng cho nghe về tân chế độ cũng như về chủ trương của Bác và Đảng. Con nghĩ sẽ căng thẳng lắm.

Tiếng chuông reo chấm dút giờ giảng huấn làm Tường như tỉnh giấc mộng. Vội vã đứng lên theo đoàn người tiến ra sân giải lao dăm phút trước khi theo toán của mình vào hội thảo ở các phòng nhỏ đã được chỉ định. Chán mớ đời, hội với thảo gì đây giữa lúc đầu óc hoàn toàn trống trơn. Các chi tiết của những huấn lệnh như 'Năm điều Bác dạy' chắc đã tan theo làn sương lam ban chiều từ lúc nào  !

Lúc rời căn phòng hội thảo nhóm thì Tường đã mệt lử. Thành ra chỉ chợt nghĩ tới cái mục viết bài báo cáo thâu hoạch thới cũng đủ làm chàng muốn lên cơn sốt. Tới lúc ráng về chỗ giường ngủ tựa vào vách viết cho xong hai trang giấy học trò, Tường như choáng váng toàn thân và hoa cả hai mắt. Thế là chàng nhất định tối nay sẽ khai đau để xin miễn tham dự buổi sinh hoạt hiệu đoàn thường lệ.

Sau giờ ăn tối, Tường về phòng ngủ trùm trăn thật kín để khỏi ai thắc mắc mình đi đâu mà vắng mặt giờ sinh hoạt tối. Cho đến lúc mọi người đã ra sân trước, chàng mới thong thả vác ghế ra ngồi bên cánh cửa nhìn xuống phía hồ Xuân Hương.

Cảnh vật cao nguyên lúc chiều tối như càng làm tăng nét buồn mênh mang xa vắng. Cái buồn hôm nay nó chẳng những gói ghém niềm nhớ mong chuỗi ngày hè rực nắng với cỏ hoa rạng ngời, nhưng còn ôm ấp nỗi tiếc nuối về một dĩ vãng tươi đẹp vừa vuột khỏi tầm tay. Làn nước hồ như âm thầm hờn tủi, bỗng dưng  gợi lên trong tâm khảm Tường cái hình ảnh vu vơ của một người con gái phải ly biệt người yêu để về sống với ông chồng mới không mảy may có chút thiện cảm nào.

Sương lúc này đã rơi nặng, lóng lánh trên lớp cỏ mọc ngổn ngang chạy xuống tận chân đồi. Tứ bề đượm vẻ vắng lặng tiêu điều. Nếu thỉnh thoảng không có tiếng hô hoán của đoàn giáo chức từ sân lớn vọng ra thì Đà Lạt giống như thành phố chết lúc này. Thật là thê thảm, thị xã mới đổi chủ được xấp xỉ năm tháng trời mà mọi sinh hoạt đã ra khác hẳn. Nào tìm đâu ra được cảnh xe cộ nhộn nhịp ngày  trước. Du khách thì tuyệt nhiên không có lấy một bóng. Khung cảnh thơ mộng của bờ hồ bây giờ chỉ còn gợi lên nỗi hoang vắng và lo sợ triền miên. Chắc hẳn những Suối Tiên, những Hồ Than Thở hay Thung Lũng Tình Yêu đâu đó cũng giờ đây đang ngẩn ngơ sầu buồn để lặng nghe cảnh… rừng thiêng gọi lá. Chốn ăn chơi du lịch hàng đầu, với 'cây xanh như ngọc, lá reo tựa đàn' này, hẳn rồi đây sẽ chỉ được dành cho những thành phần ưu đãi của chế độ. Người ta sẽ tìm cách để dân chúng phải tự động xa rời thành phố : chỉ cần thiếu tiêu chuẩn về công ăn việc làm cũng đủ buộc lòng ra đi về những vùng kinh tế mới hẻo lánh tắp tít phương nào. Phải chăng thuở vàng son cũ giờ đây chỉ còn lại chút dấu vết mờ nhạt như mấy vệt nắng yếu ớt trên sườn đồi  ?

Tường đưa mắt nhìn về phía xa bên kia hồ. Trong chút le lói còn lại của ánh hoàng hôn, bóng ngôi Học Viện Giáo Hoàng Piô X còn như ngạo nghễ trên nền trời tranh tối tranh sáng. Trước đây, vào giờ này, khách qua đường được chiêm ngắm ngôi trường rực rỡ với hàng loạt ánh đèn néon. Bây giờ chả biết vì sao bốn bề tối đen như mực. Nghe đồn nhà nước còn đang cứu xét việc các tu sinh trở lại học niên khoá mới. Mà cũng có tin nói ủy ban nhân dân thành phố muốn tiếp thu học viện để làm một cơ sở huấn luyện ngành thương nghiệp gì đó. Rõ là giậu đổ bìm leo ! Công giáo đã phải 'cúng dường' cho chính phủ viện đại học đời, nay còn chỗ huấn luyện đạo liệu rồi cũng tiêu tùng sao ? Chả biết số phận của những cơ sở tôn giáo rải rác trên Đà Lạt sẽ thế nào, nhưng nắm phần chắc là tương lai sẽ vô cùng đen tối. Rồi ngôi tiểu chủng viện bên ấp Đa Thiện, nơi Tường đã vui sống ấp ủ cuộc đời tận hiến trọn năm năm trời, không hiểu sẽ đi về đâu  !

Một cơn gió nhẹ rì rào thổi qua hàng thông trên cao lặng lẽ vẽ lên trong tâm trí Tường liên tục những kỷ niệm và mộng ước ngày thơ. Chàng bỗng dưng ngỡ ngàng tưởng chừng như mới hôm nào đây mà thực sự bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Quên làm sao được những nằm tháng hồn nhiên bên lũ bạn chỉ tròn tay ôm những giấc mơ thiên thần. Phải rồi, lúc đó chàng đã từng nhẩm tính, sau thời gian trung học ở trường Simon Hoà ngoại ô nhỏ bé, thế nào chàng cũng sẽ được cử qua theo học bên Piô X. Nhất định sẽ là hách lắm  ! Rồi theo tháng ngày, tám chín năm huấn luyện cao cấp cũng sẽ vèo trôi như tên bắn, cho chàng có cơ hội làm 'cán bộ nước Trời' để theo chân vị Tôn sư tối cao mà đem thánh ân cho anh em đồng loại. Chỉ tiếc rằng giữa lúc tương lai đang thênh thang rộng mở thì hoàn cảnh  đổi thay của gia đình đã buộc chàng phải chuyển hướng đời.

Lối đi mới cũng cho phép Tường còn nghĩ rằng mình vẫn được may mắn hơn nhiều bạn bè khác. Những vết bước sơ khởi vào đời đã phần nào hứa hẹn một chân trời tương đối lạc quan, nhất là khi chàng tìm được môi trường sinh hoạt giáo dục ý nghĩa như tại xứ đạo Hoa Lâm. Đùng một cái, biến cố chính trị thương đau và ghê gớm mới đây đã xoay ngược hẳn bàn cờ đời chàng. Những giá trị thuộc thế giới duy tâm hữu thần bỗng đâu trở thành như đồ xấu xa đáng ghét trước mắt nhà cầm quyền. Khổ nỗi ai nấy đều phải bó tay ngồi ngó, và chính chàng giờ dây đang buộc lòng chịu huấn luyện để đi vào con đường giáo dục theo một phương hướng hoàn toàn trái ngược. Một cái gì triền miên sôi sục nơi dạ nơi lòng khiến chàng không sao tìm lại được những phút an vui thanh thản cũ.

Trong một khoảnh khắc thật bi quan, Tường như thấy giận hờn cả với định mệnh và bỗng muốn bắt chước Khuất Nguyên đời trước mà ca lên khúc 'Thiên vấn' để hỏi trời sao lắm trái ngang. Bởi đâu mình chịu sinh lầm thế kỷ  ? Vì sao hoàn cảnh gia đình và đất nước cứ phải hẩm hiu, mà không chút nào được sáng sủa như hoàn cảnh của bao lớp người trẻ tại các quốc gia khác ? Chả lẽ cứ phải theo chân nhà thơ Hồ Dzếnh mà lớn tiếng phàn nàn "lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật" hoài sao ?

Giữa cái tâm trạng bàng hoàng tắc nghẽn ấy, Tường tình cờ thấy loé lên trong đầu ý nghĩ phải vượt ra khỏi cái thế giới tầm thường nhỏ bé đầy những áp bức hận thù này, cho dầu chỉ tạm thời dùng trí tưởng tượng mà vươn lên. Đó đã từng là lối đi của những người sống bằng thơ như thi sĩ họ Hồ, như Nguyễn Bính, như Huy Cận. Và đặc biệt hơn nữa, Hàn Mạc Tử đã phải mượn thi ca để ướp chút hương vào chuỗi ngày tàn phế tật nguyền. Phải rồi, đời người đã và sẽ được thêm ngọt ngào nồng ấm nhờ những vần thơ. Lúc này đây, mình quả thật đang bị đẩy vào hoàn cảnh sa lầy tằm tối, câu giải đáp độc nhất còn lại có lẽ chỉ là việc thả cho tâm  tư đi vào lối mộng và ru mảnh hồn cô quạnh này bằng những bài hát của cõi mơ.

Thế là Tường nhủ mình hãy tạm quên đi, quên cho hết những phiền toái của cuộc sống trước mắt. Dẫu lòng có thật sự đớn đau vì những điều đang trông thấy, thì cũng nên cứ tạm nhắm mắt lại để đóng vai anh nhạc sĩ mù rồi mượn âm thanh mà ca tụng những kỳ công của tạo hoá trùng điệp tứ bề, cho chính mình cũng phần nào được vui lây và còn thấy được chút vẻ đáng yêu của đời người, của nhân sinh.

Trong khoảnh khắc hứng khởi, Tường gật gù nhẩm hai câu thơ của Xuân Diệu : "Là thi sĩ nghĩa là ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây". Tiếng vi vu của từng đợt lá cây như cũng muốn họa thêm để chàng ao ước được sống vượt lên khỏi thực tế. Chàng thầm nghĩ, mai đây nhất định mình sẽ phải ôm ấp thơ với mộng cho đời bớt phũ phàng. Tội gì cứ chịu đắng cay ray rứt với những biến cố ngoại vi và cái mảnh hình hài vật chất đầy giới hạn này. Dẫu chẳng nên bắt chước đại đế A Lịch Sơn để có cao vọng ngông cuồng chinh phục cả những trăng sao tinh tú, ít ra mình cũng có quyền nghĩ rằng toàn thể vũ trụ với không gian hùng vĩ và diễm kiều kia đã được tạo hoá dựng nên cho mình, để mặc sức tận hưởng, tha hồ thưởng thức. Trời xanh nước biếc cùng với cây cỏ lá hoa, tất cả đang đợi chờ và mời gọi mình hoà nhịp. Lời ca vui lúc nào cũng ẩn tàng trong hơi gió. Hơi ấm của tâm tư luôn có thể được rút ra từ những vạt nắng ngày ngày vẫn nhảy múa ngoài kia.

Chàng cũng tự nhiên nhủ mình phải biết quên đi những đắng cay do thời cuộc hôm nay đem lại. Chúng đến rồi sẽ đi, lâu hay mau là tùy ở thái độ hồn mình. Chỉ cần biết thời gian hiện hữu, một khi mình đã tự coi mình là vua, để tự cai quản, tự định đoạt mời ý nghĩ và tất cả buồn vui của chính đời mình. Do đó, thật là hết sức vô lý khi rầu rĩ ngồi đó mà than thân trách phận. Càng vô lý khi phải nối gót Lý Bạch để cùng rượu với trăng mà đi tìm cái chết. Không, mình nhất định sẽ phải dành lấy niềm vui trong phút giây hiện tại của lúc này. Ngoài ra tất cả chỉ là nhảm nhí. Dĩ vãng thì đã qua, chả làm sao lấy lại được nữa. Tương lai thì biết thế nào mà lường  ! Krishnamurti đã thật chí lý khi kể lại câu chuyện 'Ba người thành tâm ích kỷ', lúc mở đầu tập sách 'Đường vào Hiện sinh' của ông. Thật ra, ba nhân vật này đáng phải được coi là dại dột mới đúng, bởi lẽ chả ông nào biết nghĩ rằng nếu cứ mải lo để mắt tới vị lai, họ sẽ thường xuyên tự chuốc lấy khổ não. Cái chiêu bài vị tha và xuất thế của họ đã vô tình ràng buộc mình vào trạng thái viển vông và rỗng tuếch ngày này qua tháng khác, để rồi cả ba cùng bị sa lầy mà không chút hy vọng ngóc đầu lên nổi. Cũng chính cái ông Krishnamurti này đã làm cả thế giới khâm phục khi viết sách chỉ vẽ phương thức thi vị hoá cuộc đời bằng những chuyện nhỏ bé thực tế nhất. Cái thực tế nhỏ bé này lúc nào ta cũng tìm thấy ngay trước mắt. Nghĩa là, thiên đường phải khởi sự từ khoảng đất mình đang đứng, lượng khí mình đang thở cũng như những người đang cận kề ngay bên mình.

Trong trạng huống mới lạ của tâm  tư như thế Tường bỗng thấy hình ảnh Dung tràn ngập cả trí lòng. Mọi âm hưởng về mộng với thơ lúc này bỗng đâu được kết tinh cụ thể qua bóng dáng êm dịu của nàng. Lời giải đáp cho những cố gắng muốn vượt ra khỏi cái khung chật chội tầm thường của vũ trụ nhân sinh bây giờ lại quy về nơi chính Dung. Thế là Tường đột nhiên thấy hối tiếc vì từ lâu nay chưa một lần nghiêm chỉnh chú tâm đến cái kho tàng vô giá này đây. Khởi sự phải là đề cập tới cái nhan sắc đặc biệt nơi nàng, cái nhan sắc mà biết bao chàng trai ở Hoa Lâm từng đêm ước ngày mơ. Là một thiếu nữ miền thôn quê, lại ở vào một xứ đạo khuôn khổ nề nếp, Dung không thể nào dám trang điểm như các cô gái thị thành, nhưng ai cũng phải công nhận nàng được trời cho một vẻ đẹp mặn mà hiếm có, cộng với một nét duyên vô cùng độc đáo. Hơn nữa, cái truyền thống gia đình đạo hạnh, đi kèm với cách sống hồn nhiên cởi mở nhờ những ngày tháng sinh hoạt hội đoàn, đã thực sự tạo nên ở Dung hình ảnh một người vợ lý tưởng cho Tường hay bất cứ một thanh niên nào khác ở trong hoàn cảnh như chàng. Một cách mơ hồ nào đó, Tường hiểu rằng tại Hoa Lâm, nhiều người đang coi chàng và Dung như một cặp trai tài gái sắc xứng đôi vừa lứa nhất. Điều này, Tường dẫu có cố tự dối lòng mình cách mấy cũng không được. Dung cũng phần nào biết thế, nhưng vì mối tình vừa chớm nở thì gặp ngay cảnh đổi đời cay nghiệt, nàng đành cùng với Tường âm thầm kiên nhẫn chờ cho số mệnh đẩy đưa. Dẫu rằng cả hai con tim đã như cùng hẹn ước chung một nhịp đập.

Đảo mắt nhìn lên vòm trời hồi lâu Tường mới nhìn ra được một vì sao lấp lánh mãi tận đằng xa. Chàng bất giác dướn người lên rồi nắm chặt hai bàn tay phía trước. Trong cơn xúc động, Tường nhíu đôi mắt lại như để lắng nghe cho thật rõ tiếng nói tâm tư. Chàng mường tượng mình đang thấy Dung qua hình bóng ánh sao, rồi vẩn vơ tự hỏi phải chăng Dung đang thắp sáng hồn chàng giữa khung cảnh tối đen của một thế giới mịt mù vô vọng.

Tường ngây ngất thả mặc hồn trí trôi theo làn gió nhẹ chiều hôm. Chàng vô tình nở một nụ cười thoải mái khi nghĩ rằng Dung vẫn còn đó cho chàng không phải cô đơn lê bước trên đường đời đang như thiếu hẳn định hướng. Tâm tư chàng sẽ được sưởi ấm bằng cái hình hài diễm kiều đáng mến của nàng. Gia dĩ, rồi mai dây, dẫu cơn sóng đời có phũ phàng vùi dập tới đâu đi nữa, chàng vẫn có thể đóng vai Phạm Lãi để mãi còn Tây Thi ở bên cạnh. Tình yêu thực sự chớm nở nơi hồn chàng mới đây thôi, nhưng lúc này nó đã nghiễm nhiên giữ một vị thế hệ trọng trong mọi sinh hoạt lớn nhỏ. Như một cái gì vô hình mà vô cùng mãnh liệt, có khả năng bao phủ mọi đắng cay hờn dỗi, cho cõi lòng lấy lại được chút tươi vui với tháng năm lầm lũi trôi qua. Lời hát của một ca khúc nào đó bỗng dưng vọng ngân trong ký ức Tường : 'May mà có em đời còn dễ thương'. Đúng ơi là đúng  ! Như một trùng hợp của định mệnh, Dung đã đến với chàng giữa lúc chàng cần nàng nhất. Làm gì có kiếp nào trước để mà hẹn với hò  !

Khung cảnh thanh vắng về đêm đã bất ngờ mời gọi và khơi dậy những thổn thức nơi hồn chàng, mãnh liệt như thâu gồm cả sức mạnh của đất trời. Bây giờ, vắng bóng người yêu, nỗi đơn côi mới thực sự hiện hình lên thành những đe dọa khủng khiếp, tựa vực sâu thăm thẳm. Bước chân độc hành đã mỏi để Tường bỗng thấy cần tìm thêm một bàn tay cùng dìu nhau đi hết quãng đường đời. Chưa tới lúc phải tính chuyện hôn nhân gia cảnh, nhưng lời Thánh kinh nào đó vẫn nhủ bảo 'Đàn ông ở một mình không tốt', cho chàng giờ đây thêm quay quắt với nỗi nhớ thương, với dáng điệu hiền hoà tươi mát của Dung. Dung sẽ đắp bù cho mọi khiếm khuyết của chàng. Dung cũng sẽ là hiện thân của dịu dàng và bình thản Tường cần phải có lúc này, cho tâm trí bớt sôi động căng thẳng bởi thời cuộc đổi đời. Thế là hình ảnh của nàng xem chừng đang lẩn khuất ẩn hiện nơi từng chòm lá, từng ngọn cỏ, từng giọt sương. Ngay cả giọng nói trong trẻo của Dung cũng như đang hòa lẫn với tiếng bày chim ríu rít gọi nhau về tổ và làn gió rì rào trên cao.

Tường như ngây dại trong niềm yêu thương dồn dập và nỗi nhớ chập chùng ấy. Rồi lạ quá, chưa có Dung mà Tường như đã sợ mất nàng  ! Chưa một lần trao nhau dù chỉ là một động tác âu yếm đơn sơ mà tưởng chừng chàng đã thuộc trọn về Dung từ thuở kiếp nào  ? Rõ là ở những phút giây cô quạnh nhất người ta mới nhận ra giá trị của liên hệ yêu thương, của ràng buộc tình cảm. Vào những khoảnh khắc như lúc này, Tường đã thấm thía tận đáy lòng để hiểu rằng tình yêu ngàn đời vẫn là cốt tủy của cuộc sống và hạnh phúc con người. Yêu không thể chỉ được cơi như một món đồ trang sức bên ngoài hay như gia vị làm thơm tho hấp dẫn hơn cho các món ăn, nhưng nó đã và mãi là căn bản, là mạch máu nuôi dưỡng đời người. Như hơi thở. Tựa ánh sáng mặt trời.

Tường nghe từng thanh âm lan toả khắp châu thân. Tôi là người. Thế là tôi cần phải yêu. Bởi lẽ người không yêu chỉ có là ngợm. Tất cả rõ ràng tựa trắng với đen. Và rồi Tường đã ôm cái tam đoạn luận giản dị ấy vào giấc ngủ đêm đó. Nhưng rồi mộng mị kinh hoàng nối tiếp nhau khiến chàng trằn trọc không yên. Chả bù lại cho đêm đầu mới lên còn mệt nên ngủ như chết. Lúc tiếng chuông đánh thức reo vang khắp căn phòng thì hai mắt Tường còn nặng tưởng chừng không mở nổi. Vừa bực mình, chàng lại vừa mỉm cười trách oán vu vơ cái ông Aristote bày ra trò tam đoạn luận khiến đầu óc mình giờ đây bị tác hại khốn khổ.

 Phải lấy hết can đảm Tường mới ngồi được cho tới cuối lớp thuyết trình và thảo luận ban sáng. Trong thâm tâm chàng tưởng tượng đến chuyện có thể phải tiếp tục khai bệnh xin nghỉ, để rồi chương trình tu nghiệp bị gián đoạn và chắc sẽ đưa tới việc chàng bị yêu cầu bỏ nghề dạy học. Đang lúc tâm tư rối bời như thế thì Tường được báo tin có thân nhân ghé thăm. Mấy người bạn ngỡ chàng đau nên nhắn người nhà nào đó đem thuốc đến, còn Tường thì tự nhiên có linh cảm là Dung.

Lúc thực sự đối diện với nàng, Tường nói như trong mơ :

- Sao em linh quá vậy  ! Em đến, tuy anh bỡ ngỡ, nhưng vẫn đinh ninh một cái gì đã được sắp xếp.

 Dung thì sung sướng lộ hẳn ra mặt vì được gặp lại Tường. Chỉ mới vài hôm xa cách nhưng xem như cả mấy tuần lễ. Vừa cảm động, Dung cũng vừa e thẹn khi nghe Tường dùng hai tiếng anh với em lần đầu, nhưng rồi nàng cũng đáp theo cách của chàng :

- Nào có gì linh với thiêng đâu. Mai e...em phải đi Sài Gòn theo cho kịp chuyến hàng, sợ hôm mãn khoá về anh không gặp, nên hôm nay em lên...

Tường cố giấu không nhắc đến việc mình yếu, nên nói thản nhiên như chẳng có gì xảy ra :

- Em sợ anh học tập mệt quá thành đau chứ gì  ! Cứ yên trí, anh sẽ gìn giữ sức khoẻ.

Dung cố hỏi :

- Thế tại sao anh nhắc đến chuyện gì linh thiêng  ?

Tường cười :

- À đúng đó em ạ. Tối hôm qua anh nháy mắt bên trái dữ quá.

- Nháy mắt thì làm sao  ?

- Anh còn nhớ, ông chiêm tinh Huỳnh Liên có ngôn rằng nháy mắt trái vào giờ tuất là dấu hiệu sắp có thân nhân ghé thăm.

Dung tròn mắt :

- Anh cũng tin dị đoan sao  ? Mà anh biết giờ nào là giờ tuất  ?

Tường phân bua :

- Anh nhớ rõ vào khoảng tám giờ tối mà. Lúc đó anh đang ngồi... Chàng định nói mình ngồi ngắm trăng sao bên bờ hồ, nhưng lại thôi.

Dung hỏi :

- Anh ngồi làm gì mà phải nháy mắt  ?

- Anh ngồi nghỉ.

Cố nói vội thế cho xong, rồi chàng kéo Dung vào phòng khách có cửa sổ quay ra hướng thao trường, với ngọn tháp nhà thờ lớn vươn lên giữa hàng thông cao vút đằng xa. Dung vừa lôi ra mấy gói quà vừa dồn dập hỏi :

- Anh dự khoá tu nghiệp chắc mệt và chán lắm  ?

Tường chậm rãi :

- Cũng chán và cũng mệt... vừa vừa.

Dung nhìn chằm chặp :

- Ngó bộ anh không được khoẻ thì phải.

Tường khoa tay rồi nói đổ đi :

- Ngồi nghe nhiều nên tai hơi bị ù. Có thế thôi. Vả lại....

Dung chăm chú :

- Vả lại gì anh ?

- Ba cái nội dung của khoá học tập nó chẳng giống con ất con giáp nào.

Dung an ủi :

- Anh đã biết rồi. Thôi ráng vài hôm nữa là xong.

Tường ngó vào hai mắt Dung, nói thật thong thả :

- Dung có biết hôm qua anh nhớ em khủng khiếp ?

Dung như thẹn, mặt đỏ hồng :

- Chỉ một mình anh nhớ hay sao ?

Thế là hai người đột nhiên im lặng. Họ thấy có nói thêm chi nữa cũng chỉ là dư thừa. Cả hai cùng đang ý thức họ thực sự thuộc về nhau và cần có nhau trên đời, cần hơn lúc nào hết. Tình yêu bỗng dưng quấn chặt hai tâm hồn để trở thành niềm vui và nguồn an ủi duy nhất giờ đây. Vẫn biết mưa gió cùng bão táp đang đợi chờ khắp nẻo, với những đe dọa ghê gớm hãi hùng nhất, kể cả chuyện phải chia cách phân ly, nhưng họ dường như quên hết lúc này. Cho tay được tìm tay để cùng xiết chặt mà truyền hơi ấm, mong sao đường đời bớt giá lạnh. Cho đôi tim được cận kề mà san sẻ mọi nỗi niềm thương đau cũng như vui sướng. Cũng trong lặng im, cả hai như thầm bảo nhau hãy vững tâm, kiên trì. Qua ánh mắt, họ cơ hồ gửi trao những lời hẹn thề trọng đại nhất của cõi lòng : sẽ mãi mãi bên nhau để cùng đối phó với mới biến cố ở tương lai.

Thời giờ thật ngắn nhưng cũng đủ để cho buổi gặp gỡ được đậm đà ý nghĩa. Cả hai cùng biết che giấu những xúc động quá đáng để tỏ ra mình còn đủ nghị lực. Vừa nới thêm được mấy câu chuyện vụn vặt thì chuông báo hiệu tập họp đã vang dội. Tường vội đưa Dung ra cổng để đón xe lam trở lại trung tâm thành phố.

Mãi tới chiều, lúc được thong thả về phòng mở gói quà của Dung, Tưởng mới thực sự thấy xốn xang lạ thường. Tâm trạng đó còn kéo dài mãi để lại làm khổ chàng trong giấc ngủ. Bao nhiêu ý nghĩ mơ mộng với tình tứ tối hôm qua cũng vô tình sống dậy cho chàng thêm một phen ngột thở, chới với. Quả thật, Tường chưa một lần tưởng tượng được cái ma lực của tình yêu nó lại có thể mãnh liệt và dữ dội đến như thế !


SÁU


Cha Định ngồi cố viết nháp ra ít hàng chữ để chuẩn bị đọc đón mừng Đức Giám Mục nhân dịp ngài về làm phép Thêm Sức cho hơn một trăm trẻ em trong giáo xứ. Tại Hoa Lâm, hằng năm người ta vẫn tổ chức trọng thể lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm bổn mạng, rồi nhân tiện, cha xứ thường mời Đức Cha về ban Bí tích này luôn. Dĩ nhiên năm nay tình thế đổi thay, mọi việc cũng phải thay đổi ít nhiều. Lễ bổn mạng nhằm vào thứ bảy, xã không cho phép làm chi lớn, viện cớ để dân chúng khỏi mất giờ lao động sản xuất. Thành ra mọi chuyện được quyết định hoãn lại tới ngày chủ nhật hôm sau. Mà công an còn hạch hỏi rồi ngâm tôm mãi mới phê chuẩn đơn xin.

Đồng hồ mới chỉ hơn bốn giờ chiều mà trời đã như sắp tối. Mùa đông năm nay xem chừng lạnh hơn mấy năm trước, nên suất ngày cha luôn khoác thêm chiếc áo len xám bạc phếch. Ai cũng nhận thấy, mới chưa được nửa năm nay mà trông người cha gầy và tiều tụy hẳn đi. Tóc hai bên thái dương càng ngả ra màu muối tiêu thấy rõ.

Ngồi lẩm nhẩm đọc mấy giòng chữ mà trong tâm tư cha cứ lo sợ vẩn vơ đủ chuyện. Lo trước hết là, tuy giấy tờ ở đây đã xong, nhưng liệu phép của công an trên Đà Lạt có được xuôi xắn trơn tru hay không. Rồi khi Đức Cha về làm lễ, lỡ ra chính quyền lại làm khó dễ để bắt bẻ điều này điều nọ thì chưa hiểu phần phiền toái sẽ đi tới đâu !

Cha còn nhớ rõ lắm, cả mấy tháng trời nay rồi, xã cho người rình mò theo dõi nhà thờ nhà xứ từng ly từng tí. Mượn cớ thày Hào bị bắt vì phản động, công an cứ tra vấn hai cha hoài. Lệnh tạm cấm các hội đoàn Công giáo tiến hành chả biết đến thuở nào mới được khai thông ! Dĩ nhiên xã muốn cha hiểu rằng chính cha là người chịu trách nhiệm tối hậu về tất cả mọi việc ở đây. Riêng phần cha phó thì thường xuyên bị mời lên ban an ninh và bị cảnh cáo dọa nạt đủ thứ. Lúc đầu cha Huân còn ương ngạnh và xoay đủ cách để tránh né, nhưng rồi tất cả như đã phải đi vào khuôn phép. Lúc này cha sống tựa người tù bị giam lỏng, tả hữu tưởng như luôn có kẻ canh chừng sát nút.

Bỗng có tiếng gõ cửa bên ngoài, cha Định nhỏm dậy và lên tiếng :

- Xin mời vào.

Cánh cửa vừa hé mở thì cha đã vồn vã :

- Nào mời ông chánh trương. Tôi biết ông bận lắm, nhưng ngày giờ cận kề lắm rồi. Còn có hai ngày vỏn vẹn để chuẩn bị đón Đức Cha và tổ chức lễ bổn mạng, tôi không thể không cho mời ông hôm nay để mình cùng thảo luận.

Ông chánh Thụ bước vào trong cửa với đáng điệu uể oải khác hẳn xưa. Một phần kỳ này ông phải vất vả canh tác ruộng vườn theo tiêu chuẩn mới của nhà nước; tuổi còn dưới sáu mươi vẫn có bổn phận tham gia lao động. Một phần vì ít lâu nay, tình thế quá căng thăng khiến mỗi lần phải lên nhà xứ gặp các Linh mục ông đều cảm thấy không được tự nhiên thoải mái như trước, Cùng với bốn ông trùm của bốn khu giáo, ông chánh Thụ đang bị hăm dọa gần xa. Thành ra dẫu chẳng muốn, việc hăm hở tổ chức lễ lạc cũng tự nhiên bị giảm sút. Ngay hôm lễ Các Thánh Nam Nữ mới rồi, công an thấy ban tây nhạc thổi mấy bài trong thánh lễ cũng cho gọi ông lên hạch hỏi khiển trách, viện lẽ ông là người đã đứng ra yêu cầu ban kèn đồng này tới nhà thờ. Dĩ nhiên việc không xin phép này đã chồng chất thêm rắc rối cho ông. Để rồi hôm nay, vừa rón rén bước vào phòng cha xứ, sau mấy câu chào thăm thường lệ, ông đã cất tiếng hỏi ngay :

- Bẩm cha đã ra xã xin giấy phép đón Đức Giám Mục chưa ạ ?

Cha Định dư hiểu tâm trạng lúc này của vị chức sắc cao cấp đang đứng trước mặt mình đây, nên vừa kéo ghế mới ông ngồi, cha vừa ôn tồn đáp :

- Có phép hẳn hơi rồi ông chánh ạ. Tôi biết họ muốn làm khó dễ mình, nhưng chẳng lẽ mình đành cứ ngồi thúc thủ hay sao ! Lễ bổn mạng của toàn giáo xứ, lại được Đức Cha về ban phép Thêm sức, cả năm mới có một lần, dẫu gì đi nữa mình cũng phải tổ chức cho ra chút chi đặc biệt chứ !

Ông chánh Thụ nhìn lơ đễnh lên trần nhà :

- Con xin đồng ý với cha xứ. Chỉ có điều…chẳng biết tổ chức thế nào để tránh rắc rối phiền phức.

Rồi như sực nhớ lại câu chuyện ban tây nhạc hôm trước, ông cất tiếng hỏi :

- Để cho xôm thì cần có hội kèn tây, nhưng lúc này ai đứng ra xin phép được ?

Cha Định vội đáp : 

- Họ thổi trong nhà thờ, hoàn toàn thuộc lễ nghi tôn giáo. Chả lẽ mỗi chi tiết trong nghi lễ cũng phải được chuẩn y cả sao ?

Ông chánh Thụ như xót xa :

- Khổ lắm cha ạ. Chuyện xảy ra hôm lễ Các Thánh còn rành rành đó. Họ đổ tội cho con qua mặt xã. Thành ra, vào hoàn cảnh này, cha xứ cần tới gặp công an để trình bày rõ trên giấy trắng mực đen.

Cha Định thở dài ngao ngán. Giọng nói nhát gừng cùng với dáng điệu bi quan của ông chánh trương khiến cha xem chừng mất hứng theo. Cái ý nghĩ về việc rước chung quanh khuôn viên nhà thờ bỗng đâu tan biến trong tâm trí cha. Rước mà thiếu ban kèn thì còn chi nhạt nhẽo cho bằng ! Mà biết đâu rồi họ lại hạch hỏi mục rước xách không trình báo. Có thế, xã cho tổ chức lễ là một chuyện, còn tổ chức với những chương trình gì lại là một chuyện khác. Như một cái bẫy được giăng ra để người ta tìm đủ cớ mà bắt bẻ, dọa nạt.

Hai cha con ngồi bàn đi tính lại mãi mà vẫn chỉ thấy bế tắc. Cả hai cùng nghe ấm ức tận cùng trong tâm khảm, nhưng chả nghĩ ra được cách nào để giải toả, khai thông. Đề cập tới hoàn cảnh mấy giáo xứ trong vùng thì cũng na ná tương tự. Dĩ nhiên Hoa Lâm đang phải hứng chịu mũi dùi tấn công chính yếu. Mở miệng ca thán cũng chỉ là phí sức hoài công.

Và thế là, ngày Đức Cha về, khu vực quanh thánh đường như vắng lặng khác hắn với mọi năm, bởi giáo dân âm thầm ngồi đợi cả ở bên trong. Vỏn vẹn chỉ có dăm ba lá cờ và một hàng biểu ngữ đơn sơ được treo trước mặt tiền. Khoảng hai chục em thiếu nhi mặc đồng phục đứng theo hàng đôi đón vị chủ chăn giáo phận tiến vào cửa chính nhà thờ. Mặt mũi em nào xem ra cũng hớn hở vì được dịp mặc lại bộ đồ đã mấy tháng nay bị tạm cất bỏ xó, bởi chương trình sinh hoạt thường xuyên đã phải ngưng. Như phần nào hiểu được tâm trạng lũ trẻ, Đức Giám mục cứ đi vài bước lại dừng chân xoa đầu vỗ về thăm hỏi. 

Lúc cha xứ giới thiệu đoàn nhi đồng sắp chịu phép Thêm Sức cũng đang đứng thành hai hàng dọc theo lối đi giữa lòng nhà thờ, Đức Giám Mục như bỡ ngỡ về con số thật đông đảo nên quay ra hỏi :

- Năm nay mà vẫn lo được cho ngần này em thêm sức quả là cha phải mệt lắm ?

Cha Định gật gù :

- Vâng, có một số khó khăn bất ngờ, nhưng thực sự giáo dân vẫn sốt sắng và cố gắng nhiều lắm. Ai cũng mong được gặp Đức Cha.

Giáo dân tự động đứng cả lên và đồng loạt quay về hướng Đức Giám Mục. Ai nấy tỏ ra hết sức vui mừng, nhưng cũng không giấu nổi tâm trạng buồn tủi thầm kín bên trong. Mấy bà trong đoàn Đạo Binh Đức Mẹ xem chừng xúc động ứa nước mắt. Mọi người đều như muốn chạy tới ôm chầm lấy vị chủ chiên để kể lể cho vơi đi bao nhiêu là nỗi niềm đớn đau cay đắng.

Già trẻ lớn bé đều hiểu rằng Đức Giám Mục cũng chẳng có thần thế chi lúc này để bênh vực che chở họ trước những mưu chước và nanh vuốt của bọn chó sói vô thần Cộng sản, nhưng bóng dáng của ngài bất ngờ đã tạo nên niềm an ủi sâu xa cũng như khích lệ họ thêm vững tin vào lý tưởng siêu nhiên. Nhờ đó họ bớt đi cái cảm nghĩ bị bỏ rơi, đơn độc.

Đa số giáo dân thì chỉ có cái cảm nghĩ ấy. Họ nào tưởng tượng nổi rằng chính bản thân của Đức Cha cũng đang gặp phải những khó khăn căm go, những thử thách chồng chất. Đà Lạt trước đây được coi là đất dụng võ của Công Giáo. Phải nói rằng ảnh hưởng của các dòng tu và trường đạo đã từng khiến cho đối thủ của Giáo hội phải ghen tương bực tức. Để rồi, khi tình thế đổi thay, những tức giận hờn ghen ấy nghiễm nhiên dẫn tới những hành động trả thù và đàn áp cho bõ ghét. Chính quyền đã tìm mọi cách làm khó dễ đối với mới sinh hoạt tôn giáo. Các cơ sở đạo dân lượt chịu những luật lệ và hạn chế gay gắt nhất. Dĩ nhiên một số lớn bị ép hiến dâng cho nhà nước. Rất nhiều  tu sĩ bắt đầu phải vất vả lao động tay chân để sinh sống. Chương trình tông đồ truyền giáo bị thu hẹp vào chỗ ầm thầm, tối thiểu. Đặc biệt tất cả những di chuyển của Linh Mục Tu Sĩ đều bị kiểm soát gắt gao.

Điều khổ tâm nhất của Đức Giám Mục là không được tự do đi thăm các giáo đoàn, cũng như để ban phép Thêm Sức như dịp về Hoa Lâm hôm nay. Có lần chương trình lễ phải hoãn đi hoãn lại mấy lần vì gặp trục trặc khi xin phép chính quyền. Có những dịp công an nơi đi chấp thuận nhưng địa phương nơi đến lại chưa đồng ý. Mà rồi lúc trở về toà Giám Mục cũng chưa chắc đã được êm xuôi : chính quyền còn gọi ra hạch hỏi chuyện này chuyện nọ liên can tới việc tổ chức, tới nghi lễ, tới bài giảng, tới nhân sự v.v... để rồi dọa nạt sẽ cấm hẳn việc đi lại.

Thành ra, nhiều người ở hàng ghế gần lối đi giữa nhà thờ hôm nay đã có thể nhận ra một vài vết nhăn mới trên khuôn mặt vốn đã mang nặng ưu tư của vị chủ chăn. Thế nào cũng có vài người so sánh sự biến đổi trên nét mặt của ngài với nét mặt cha xứ Hoa Lâm. Mỗi người một nỗi khổ của hoàn cảnh riêng. Nhưng chắc vì trách nhiệm nặng nề lớn lao hơn, nên Đức Cha rồi đây sẽ còn mang những nét đổi thay độc đáo hơn.

Vừa tiến vào thánh đường được vài hàng ghế Đức Giám Mục đứng khứng lại khi bất ngờ nghe tiếng hợp ca vọng vang từ một góc phía trái nhà thờ. Điệu nhạc trầm bổng hùng hồn nhưng không thiếu vẻ tôn nghiêm trang trọng bỗng đâu như lấy lại được bầu khí tưng bừng của một cuộc đại lễ. Tiếng đại phong cầm cũng réo rắt hoà theo giọng hát của Ca đoàn giới trẻ, hôm nay được mời hát thay đoàn Ca Vịnh giáo xứ. Nét hớn hở như hiện rõ trên khuôn mặt từng người.

Từ vài tuần trước, Tường đã được hai cha nhờ phụ trách phần hát lễ Thêm sức và Bổn mạng giáo xứ năm nay. Dĩ nhiên sự hiện diện chủ tế của Đức Giám Mục đã đòi các ca viên cố gắng hơn, những khổ nỗi việc tụ họp lại để tập hát bị nghiêm khắc cấm đoán, giống như sinh  hoạt của các đoàn thể khác, thành ra Tường phải thật vất vả đi liên lạc tư với các anh chị em Ca đoàn giới trẻ cũ. Nhờ đa số vẫn còn nhớ các bản hát trước, rồi cũng bởi xen kẽ thêm một vài bài phổ thông đại chúng khác, nên Tường phần nào thấy an tâm lãnh nhận trách nhiệm. Chàng đứng giữ nhịp trên một bục gỗ nhỏ gần lối đi phía trái. Thỉnh thoảng đến phần nhà thờ hát chung, Tường lại giơ tay mời tất cả cùng hát cho đúng nhịp. Ai nấy như hứng khởi hẳn lên. Trong thâm tâm, mời người đều hiểu rằng cả xứ Hoa Lâm đã chờ đợi những giây phút này từ lâu lắm rồi.

Đến lúc Đức Cha bắt đầu giảng thuyết thì già trẻ lớn bé thinh lặng lắng tai nghe tưởng chừng không bỏ sót lấy một lời. Bằng một giọng hết sức tha thiết, vị chủ chiên khéo léo ủi an và nâng cao tinh thần đoàn tín hữu. Nhân dịp đây cũng là lễ Thêm Sức, ngài đoan chắc với mọi người rằng Chúa Thánh Thần sẽ không để họ mồ côi, nhưng luôn ban dư đủ ơn thiêng cho ai nấy được vững mạnh trong đức tin. Để kết luận, ngài ước mong rằng lễ bổn mạng giáo xứ năm nay sẽ mang một ý nghĩa đặc biệt cho mọi người, nhất là sẽ giúp nhận ra những dấu hiệu của bàn tay Chúa khắp nơi mà rồi ai nấy được trưởng thành hơn trong việc giữ đạo.

Khi thánh lễ chấm dứt thì trời đã xế trưa, các trẻ vừa chịu phép Bí tích đều tiến ra cửa chính nhà thờ để chụp hình lưu niệm với Đức Giám Mục. Giáo dân cũng đổ xô tới vây quanh ngài để ríu rít thăm hỏi đủ mọi thứ chuyện. Cái cảnh cha con luyến lưu thương mến ấy chắc chả thoát được một vài cặp mắt ghen tuông tị hiềm của chính quyền xã. Mến thương ai trên cả Bác và Đảng lúc này vô tình trở nên một thứ tội khó tha thứ được ! Với tân chế độ, tôn giáo sẽ mãi mãi là kẻ tử thù, phải tìm cách tận diệt cho tới gốc rễ.

Khi hai cha mời Đức Giám Mục trở về nhà xứ thì mấy chị em đoàn Con Đức Mẹ đã lên phụ với bà bếp dọn sẵn bữa ăn trưa. Cũng khoảng thời gian này năm ngoái, bữa tiệc có đầy đủ mặt hầu hết các cha quanh vùng. Hôm nay, như phần nào  để bù đắp chỗ trống vắng, cha xứ quyết định mời ông chánh trương Thụ và bốn ông trùm bốn khu cùng ngồi ăn hầu chuyện Đức Cha. Nài ép mãi, các ông này mới dám nhận lời; dĩ nhiên lần đầu tiên ngồi chung bàn với Đức Giám Mục, ai nấy không giấu nổi nét rụt rè ngượng ngập.

Tường và hai anh bạn khác cũng được nhờ lên phụ giúp. Chàng buồn rầu cho hai cha biết Khương phải làm phụ trội cho hợp tác xã cả ngày chủ nhật hôm nay nên không có mặt được. Chẳng cần nói, ai cũng hiểu rằng cuộc đổi đời bi thảm đã kéo theo những đổi thay chua xót. Phần đạo phải cấm cách ngăn cản đã đành, mà phần đời cũng bỗng nhiên trở thành đổ vỡ tan hoang. Tự nhiên chuyện áo cơm sinh kế hóa nên đầu mối cho những bế tắc ghê gớm trong lối sống thường ngày. Để rồi sẽ là những chia xa, những tan tác. Mà ở riêng trường hợp của Khương, tương lai bỗng hiện ra như cơn ác mộng tăm tối. Có thể thêm vì lý do chàng đã hăng say sinh hoạt cho lũ thiếu nhi nhà thờ, người ta bắt đầu đặt vấn đề  gia đình Khương sẽ phải rời Hoa Lâm đi vùng kinh tế mới, có thể tại khu Ka Đôn, mà cũng có thề xa tít miệt Suối Thanh. Theo  Khương kể, xã không hề đề cập tới chuyện 'nhà nguỵ quân' mà chỉ đưa ra lý do đơn giản là gia đình chàng không đủ tiêu chuẩn ở lại.

Đúng như điều Tường phỏng đoán, vừa bước vào cửa phòng ăn nhà xứ, chàng đã thấy bóng Dung cùng với mấy cô bạn đang bận rộn đi lên đi xuống từ nhà bếp. Dung chưa kịp phản ứng ra sao thì Phượng đã lấy khuỷu tay hất qua người nàng như ngụ ý chọc ghẹo. Thật ra, trong các chị em hội Con Đức Mẹ, Phượng thân với Dung nhất. Chuyện tình giữa Tường và Dung có lẽ nàng biết rõ hơn cả, mặc dầu Dung chỉ tâm sự qua loa. Vì lanh chân lanh tay và giỏi tính toán, nên được chị em bầu làm thủ quỹ, nhưng rồi chưa có dịp trổ tài thì hội đã phải tạm ngưng sinh hoạt. Thành ra hôm nay là cơ hội đầu tiên Phượng thi hành chức vụ : nàng nhân danh đoàn lên giúp nhà xứ chuẩn bị bữa tiệc khoản đãi Đức Cha. Dĩ nhiên nàng có Dung bên cạnh làm cố vấn chọn thực đơn. Chị đoàn trưởng Loan mắc theo mẹ đi Bảo Lộc thăm người anh gốc cảnh sát đang học tập cải tạo. Chị đoàn phó Thanh và hai chị khác cũng lên giúp nhưng chỉ phụ ở vòng ngoài.

Tường lên tiếng chào mọi người rồi cùng hai anh bạn tới chỗ Đức Cha xin hôn nhẫn. Cha Định mau mắn lên tiếng giới thiệu :

- Thưa Đức Cha đây là anh ca trưởng ca đoàn giới trẻ phụ trách hát lễ hôm nay. Hy vọng Đức Cha không chê những giọng hát nhà quê của Hoa Lâm chúng con.

Đức Giám Mục tươi cười :

- Cha xứ nói chi lạ thế ! Cha khiêm nhường theo lối cổ mất rồi. Tiến lên...Xã hội chủ nghĩa mình phải tân tiến hơn nữa mới được !

Mọi người cười ồ sau câu nói của Đức Cha. Rồi cha Huân chỉ vào Tường lên tiếng :

- Bà con mình chả nên giấu điều gì. Nhất định mấy anh chị em trong ca đoàn hôm nay cũng ráng trổ tài hơn một tí, vừa vì Chúa, vừa vì Đức Cha; thành ra nghe cũng được được. Phải không anh ca trưởng ?

 Tường như bí thế, quay qua cha Định để cầu cứu :

- Cha xứ biết rõ chúng con hơn.

Cha Định tủm tỉm :

- Nếu thật như cha phó nói thì cũng... tốt thôi. À... mà phải khoe thêm với Đức Cha một điều cho được công bình : bọn trẻ bị cấm tụ họp tập hát, thế mà chúng vẫn tìm cách dợt với nhau được như vậy là giỏi lắm.

Đức Giám Mục đưa tay về hướng cha Định :

- Cha thấy chưa, nói tới nói lui rồi cũng phải nói sự thật. Thôi, cha xứ liệu bề thưởng cho họ đi là vừa. Không thưởng là lỗi đức công bằng đấy.

Mọi người đổ xô nhìn về phía Tường khiến chàng thẹn đỏ cả mặt. Ngó về hướng trái, Tường thoáng thấy Dung như đang cười thầm. Dĩ nhiên nàng rất vui nhưng lời khen trước mặt nàng lúc này xem chừng chỉ làm chàng thêm ngỡ ngàng bối rối, hai bàn tay bỗng trở nên thừa thãi lúng túng lạ kỳ. Dẫu sao, trong thâm tâm, Tường cũng được phấn khởi khích lệ thật nhiều, không phải qua chút tự hào cá nhân, nhưng hệ trọng là thấy tinh thần mọi người được nâng lên cao, sau những ngày tháng ưu tư sầu thảm. Gia dĩ, trong dịp đại lễ hôm nay, tuy Hoa Lâm chẳng được thấy những rộn rã tưng bừng của các năm trước, nhưng tâm tư mọi người vẫn còn kết liên bền chặt, niềm tin tưởng vẫn ủ ấp từng trái tim và bừng lên qua mỗi ánh mắt. Thành ra ngày bổn mạng giáo xứ, với sự hiện diện âu yếm và việc chủ tế sốt sắng của Đức Giám Mục, hoà theo lời kinh câu hát của cả cộng đoàn dân Chúa, đã thực sự trở nên một thang thuốc bổ, nếu không muốn nói là liều thuốc hồi sinh cho toàn giáo xứ. Để rồi mai đây, ở những phút giây khó khăn cơ cực nhất với các thử thách căm go đắng cay nhất, cha con hy vọng sẽ được vững chí bền tâm cho tới cùng.

Lúc Đức Cha lên xe ra về thì trời xem chừng bắt đầu lất phất mưa. Cha Huân bỗng nẩy ý định rủ Tường ngồi chung xe gắn máy với mình để tiễn Đức Cha ra tới ngã ba Phi Nam, khoảng nửa quãng đường lên Đà Lạt. Đức Cha ngỏ ý can ngăn, nhưng hai người cứ nhất định xin theo. Thế là Tường ngồi trên yên phía sau cha phó theo hộ tống chiếc La Dalat cũ kỹ hướng về phía tây. Cha con bùi ngùi cảm động, lặng lẽ trao nhau một lời nguyện ước và thầm hẹn sẽ tái ngộ trong một dịp thật gần.

Khi xe đi qua Mơ Long, trụ sở mới của huyện Đông Doanh, cha Huân quay lại nói với Tường :

- Tường có nhìn rõ khu nhà giam họ đang giữ thày Hào bên phải kia không ? Bây giờ là bố già, chả biết bao giờ thì tới lượt mình !

Tường xót xa :

- Rõ lắm cha ạ. Phải chi mình được phép thì chút nữa ngừng lại xin thăm thày.

Cha Huân lắc đầu :

- Đời nào họ cho mình gặp dễ dàng thế ! Bà Thục là cháu mà xin phép lần nào cũng như bị làm khó dễ. Hệ thống Luật pháp với công an của họ thật là hết chỗ nói ! Hồi nãy Đức Cha có vẻ rớm nước mắt khi hỏi thăm về vụ thày già.

Tường buồn rầu nhìn ra hai bên đường. Cảnh vật như mờ mịt trong làn mưa phùn pha lẫn lớp sương lam miền núi. Mưa rơi lộp độp trên nón áo mưa cơ hồ gợi lên những tiếng thổn thức liên tục triền miên của một kiếp người lắm đầy đọa, gian truân. Mà ở đây, cơn mưa rồi ra sẽ dứt, nhưng cơn thảm sầu của dân chúng chả biết bao giờ mới gặp lại được ngày tươi sáng và thoải mái cho trí óc tâm tư ! Màu cờ đỏ theo cơn gió chiều bay tả tơi trên toà trụ sở huyện kia như còn tiếp tục gieo kinh hãi khiếp sợ cho đám dân lành. Chỉ mới cách đây ít tháng thôi, khu Mơ Long này tấp nập những sinh hoạt xã hội và mục vụ truyền giáo được khai sinh bởi các cha Thừa sai Ba Lê, cùng với sự tiếp tay của hội đòng nữ tu Phan Xi Cô qua mấy cơ sở bác ái và y tế. Ai cũng biết, đây là những cố gắng để nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của đám người thiểu số thuộc sắc tộc Kôhô ở địa phương này. Bây giờ, đám dân Thượng bị đẩy vào trong các thôn ấp hẻo lánh xa xôi và những dãy nhà khang trang nhất được chính quyền chiếm ngụ. Các Linh Mục ngoại quốc bị tống khứ cả về nước. Tu viện nữ chỉ còn được giữ lại mấy gian nhà chứa đồ cũ để làm chỗ che nắng mưa. Dĩ nhiên các Ma sơ buộc lòng phải sinh sống bằng nghề cuốc đất trồng rau rất cực nhọc.

Tường lên tiếng hỏi :

- Cha có hiểu tại sao người ta quyết định bỏ thị trấn Dran để chọn Mơ Long nhỏ bé này làm huyện lị Đông Doanh mới không ?

Cha Huân nói theo tiếng gió :

- Nghe đồn vì lý do chiến lược chi đó : họ sợ kháng chiến Phục Quốc dễ đàng tấn công, bởi vị trí Dran kế đèo Ngoạn Mục khó phòng thủ hơn. Chả biết có đúng không….

Tường thở than :

- Chỉ tội cho đám người Thượng bây giờ chả khác chi mồ côi, cả phần đời lẫn phần đạo đều thiệt thòi.

Cha Huân giọng run run :

- Cộng sản thì có bao giờ thương với xót ai ! Để chiếm trọn của cải và tài sản, họ vu cáo các vị truyền giáo là gián điệp, là tay sai đế quốc cho có chút lý do. Nhưng nào chỉ có các giáo sĩ ngoại quốc là nạn nhân của họ thôi đâu, mấy cha Việt Nam lo giảng đạo cho người Thượng ở vùng Di Linh và Phú Hiệp cũng chịu chung cả một số phận. Đáng thương nhất là Linh Mục Khoan vừa bị tịch thu hết mọi đồ đạc dụng cụ, lại vừa bị tống giam và hành hạ dã man nữa.

Tường nghe sôi sục trong lòng và thấy như có gì mắc nghẹn nơi cổ họng.  Tình cờ chàng nghĩ đến bóng dáng những anh hùng Phục quốc đang nuôi mộng dựng lại ngọn cờ tự do cho đất nước. Quả thật ở một khía cạnh nào đó, họ được nhiều người coi là niềm hy vọng hầu như độc nhất của toàn dân. Chàng bất giác buột miệng :

- Phải chăng chỉ còn giải pháp vào bưng chiến đấu ?

Cha Huân như đọc được rõ tâm tư Tường, thong thả phân tích :

- Không kể việc cầu khẩn Chúa ra tay hỗ trợ, xem chừng chỉ còn con đường đó. Có điều khó là Việt Cộng họ đã dày kinh nghiệm du kích núi rừng, e rằng lối đi nước bước của anh em Phục quốc lúc này họ nắm được cả, dễ gì mình lật ngược nổi thế cờ !

Tường nói lớn :

- Mình cứ kiên tâm cầm cự, rồi móc nối nhờ các đồng minh cũ tiếp sức giúp khí giới, biết đâu....

Cha Huân lắc đầu : 

- Ông Mỹ to đầu đã quất ngựa truy phong rồi, đồng minh nào thì cũng tùy cả ở chú Sam đó thôi. Dẫu sao, mình cũng phải nuôi cái tinh thần chống đối này, để tùy cơ mà ứng biến. Bầy giờ thì dân chúng đủ căm phẫn rồi.

Tường nói theo :

- Nghe kể trong xóm Thạnh Hoa bên kia sông, đám dân địa phương trước đây còn hí hửng kỳ vọng vào mấy ông 'giải phóng' nhiều lắm, nhưng lúc này ai nấu đã ớn đến cổ rồi. Được móc nối, chắc chẳng thiếu gì thanh niên sẵn sàng gia nhập đoàn kháng chiến.

Cha Huân như biểu đồng tình :

- Đã hẳn là thế, nhưng vấn đề là có người đứng ra tổ chức và móc nối cho hữu hiệu. Bọn Cộng sản dùng công an rình mò từng xó từng góc; chỉ mới nghi ngờ thôi họ đã thẳng tay đàn áp bắt bớ rồi, còn đâu mà tổ với chức ? Họa may bây giờ có nhân vật nào thuộc hàng thần như Đức Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương ra tay đánh dẹp bọn 'giặc Ân thời  mới' này. Hoặc có ai tìm ra được chiếc nỏ diệu kỳ của An Dương Vương có sức bắn một phát chết ngàn vạn tên giặc. Chỉ có vậy mới xoay đổi mau chóng được thế cờ.

Xe dần giảm tốc độ rồi ngừng hẳn lại vì đã tới ngã ba Phi Nam. Đức Giám Mục cũng dừng lại ở một góc để đưa tay từ biệt và cảm ơn hai người. Bởi cơn mưa vẫn còn nặng hạt nên chẳng tiện tới bắt tay, nên cha Huân cũng cúi chào rồi quay xe trở lại khi thấy chiếc 2-Chevaux bắt đầu lăn bánh rẽ vào quốc lộ 20 theo hướng bắc.

Vừa lúc bóng Đức Giám Mục khuất dạng sau đám cây um tùm, Tường hắng dặng rồi chồm người lên nói lớn :

- Hôm nay con còn oai hơn cả Đức Cha !

Cha Huân bỡ ngỡ :

- Oai thế nào ?

Tường cười khanh khách :

- Đức Cha không có tài xế. 

Cha Huân chỉ ầm ự mấy tiếng rồi tủm tỉm cười. Cha biết Tường thích nói pha trò cho vui, nhất là ở những lúc cần cho đầu óc bớt căng thẳng. Một lát sau, cha quay lại nói thong thả :

- Thôi dẹp chuyện đó đi. Tường có biết nỗi khổ của Đức Giám Mục lúc này lớn lao thế nào không ?

- Con cũng phần nào tưởng tượng ra.

- Chả mấy ai hiểu nổi cho ngài đâu. Gánh nặng một mình vác trên vai mà không ai có thể san sẻ được. Lúc nãy, ngài có tâm sự với cha xứ và tôi rằng từ ngày về nhậm chức cho tới nay ngài sút mất hơn chục kí lô rồi.

Tường há miệng trợn mắt :

- Tội nghiệp Đức Cha. Thảo nào thấy nét mặt ngài nặng trĩu những ưu tư.

Cha Huân tiếp :

- Ngài về coi giáo phận này được có mười ngày thì mất Đà Lạt. Theo lời Đức Cha, lúc nhìn giáo dân ùn ùn di tản, ngài khóc như bố chết vậy đó. Bây giờ đa số đã hồi hương, nhưng tình thế lại quá khắc nghiệt. Cầu mong Chúa giúp sức cho Đức Cha được can đảm và khôn ngoan luôn.

Trên đường về, cơn mưa như trút nước. Hai cha con đều buồn bã chẳng ai muốn nói thêm chi cho tới khi chiếc xe dừng lại trước sân nhà xứ.


BẢY


Dung đã nghỉ không đi Sài Gòn cất hàng có tới gần hai tháng trời nay. Công an kiểm soát vô cùng gắt gao khiến nhiều bạn hàng khác cũng đành phải chịu bó tay như nàng. Chẳng những họ tịch thâu hết các hàng hoá buôn chui, mà còn bỏ tù và phạt tiền rất nặng. Kế hoạch nhà nước bây giờ là mọi thứ mua bán đều qua cửa hàng quốc doanh. Thế là Dung đành luẩn quẩn ở nhà phụ giúp vợ chồng người anh chăm sóc mấy mảnh vườn. Khổ một điều là kỳ này nhà nước đẩy mạnh kế hoạch hợp tác xã rất chặt chẽ, có thể chả mấy nữa mà gia đình nàng sẽ lâm vào hoàn cảnh chật vật khó khăn hơn. Bạn bè cũng gần xa cho Dung biết nàng thuộc vào danh sách những thanh niên nam nữ bị chính quyền để ý thường xuyên, đặc biệt vì cái dĩ vãng quá gắn chặt với 'nhà thờ' của nàng.

Hôm nay đã là hai mươi chín tết, cái tết đầu tiên trong tình trạng éo le của đất nước miền Nam. Dân chúng đó đây cũng chuẩn bị đón xuân, nhưng chả còn thấy cái bầu khí tưng bừng náo nhiệt của những năm nào. Cảm thông nỗi khó khăn, kể cả những hạn hẹp gò bó về vật chất của giáo dân, cha xứ Hoa Lâm đã ra nhà thờ đề nghị năm nay đừng ai lo lắng sắm quà lên tết các cha như các dịp đầu xuân trước đây nữa.

Chiều hôm nay, Dung ngưng công tác dãy cỏ vườn dưa leo và xới đốn mấy luống cà chua để về nhà sớm. Vào ban tối, ấp có phiên họp quan trọng về thể lệ trồng tỉa và mua bán của nhà vườn theo quy chế mới; Dung sẽ phải thay mặt gia đình tới dự. Nàng thủng thẳng bước tắt qua mấy bờ mương để theo con lộ trải đá chạy từ mé sông Đa Nhim dẫn về Hoa Lâm. Gió chiều hây hây thổi theo tiếng rì rào của hàng cây bông gòn được trồng dọc theo con lộ. Nắng đã nhạt nhưng vẫn trải dài le lóới trên cả một vùng ruộng vườn mênh mông. Dung móc chiếc nón dứa quai màu tím nhạt vào cánh tay trái, vừa đếm bước vừa khẽ mỉm cười nghĩ tới cuộc hẹn đi chơi Đà Lạt với Tường vào sáng mai, ba mươi tết, nhân thể mua sắm thêm những thứ cần cho gia đình. Nắng như làm hồng thêm đôi má nàng đã vốn nổi bật giữa những lọn tóc đen thẫm được uốn sơ sài để chảy dài xuống hai vai.

Tiếng chim ríu rít đâu đây khiến Dung càng thấy vui hẳn lên, cơ hồ quên khuấy đi những ý tưởng lo lắng bi quan cũng như các khó khăn của thời cuộc trước mắt. Nàng nghe nhè nhẹ một tiếng nói vu vơ : Thôi tất cả rồi cũng sẽ quen. Mọi nơi rồi ra cũng đâu vào khuôn khổ đó. Tuy cuộc sống sẽ phải gò bó thu hẹp lại, nhưng mình vẫn được cơ hội chia sẻ các buồn vui bên cạnh dân chúng Hoa Lâm. Dẫu đôi tay mọi người rồi sẽ chai lại hơn trước, cũng như khuôn mặt sẽ thêm sạm nắng và cằn cỗi hơn, nhưng niềm tin yêu sâu đậm vẫn gói chặt tất cả trong một bầu khí thiết thân gần gũi.

Thầm kín hơn cả trong tâm tư Dung vẫn là nỗi ấp ủ về một tương lai gần sẽ có Tường luôn ở cạnh. Mối quan hệ tình cảm với chàng đi vào hồn nàng nhẹ nhàng, êm đềm và chậm rãi lắm, nhưng lúc này nó quả như đã chiếm ngự trọn cả trái tim. Bên ngoài thì tất cả vẫn chỉ là xa xôi thoang thoảng tựa làn sương lam. Gia đình nàng cũng vẫn chưa thấy điều chi khác lạ ngoài một tình bạn bình thường, dựa vào những liên hệ sinh hoạt đoàn thể xứ đạo trước đây.

 Với Tường, Dung đã có đủ lý do để đặt hết cả tin tưởng và kỳ vọng. Càng với thời gian, càng với những biến cố đổi thay, Dung càng nhìn ra ở chàng một tâm hồn thẳng thắn, bình dị, mà đồng thời cũng hết sức cương quyết, vững vàng. Chỉ thực sự quen Tường mới được hơn một năm trời nay, nhưng nàng đã sớm hình thành nơi tâm tưởng một bóng dáng, một khuôn mẫu của người bạn đời trăm năm. Yêu Tường, nhưng Dung không bị lôi kéo bằng những tình cảm ồn ào vội vã. Ngược lại trái tim nàng xem chừng luôn được hướng dẫn bởi những suy tư chín chắn, lồng trong một khung cảnh tôn giáo đạo hạnh vững chắc. Tuy nhiên, bàn tới chuyện cưới hỏi lúc này có thể là quá sớm và nhất là chưa thuận tiện để đặt vấn đề với gia đình nàng. Gia dĩ, Dung vẫn chưa quên được câu nói của mẹ cứ nằng nặc khuyên nàng nhận lời cầu hôn của anh chàng Dân trước đây.

Đẩy cổng sau bước vào sân nhà, Dung như thấy có một linh tính lạ báo trước chuyện chi khác thường hôm nay. Nàng rón rén tới gần khung cửa hậu lắng tai nghe, và rồi giật mình khi khám phá ra là ông bà Thơ đang ghé thăm để nói chuyện với mẹ nàng. Tiếng vọng từ trong nhà thật rõ :

- Thú thật với bà quản, thằng Dân nhà tôi nhất định chỉ xin cưới cô Dung. Có tới cả hai, ba năm trời nay, hễ chúng tôi cứ đặt vấn đề lập gia đình là nó khăng khăng một mực chỉ đòi có điều đó. Thành  ra hôm nay chúng tôi lại thân hành tới thăm viếng bà để xin ngỏ lời một lần nữa. Trước sau, xin được bà hiểu cho rằng vợ chồng chúng tôi luôn ghi nhớ lới các cụ khuyên : Năm quan mua người, mười quan mua nết.

Dung hồi hộp chờ câu đáp của mẹ nàng. Một lúc lâu mới nghe giọng nói nhỏ nhẹ :

- Vâng thưa ông bà, tôi cũng rất hiểu ông bà thực tâm có lòng qúy mến cháu, cũng như tôi đã từng lên tiếng nhủ bảo nó, nhưng cho tới nay nó vẫn cứ thế nào ấy... Thiệt tình, được làm xui gia với ông bà, gia đình chúng tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm.

Bà Thơ vội tiếp :

- Hay là có điều chi cô Dung thấy chưa vừa ý, chúng tôi rất mong được nghe biết.

Mẹ Dung cắt ngang :

- Nhất định cháu nó chả dám chê bai hay đòi hỏi gì đâu. Có điều nó lúc nào cũng như lửng lơ lãnh đạm với cái chuyện ấy.

Ông Thơ ngó qua vợ rồi trình bày thêm :

- Dân nó bây giờ có chân rất vững trong tổ hợp chuyên chở rau của xã Hoa Lâm rồi : vừa góp cho tổ hợp nguyên vẹn chiếc xe mình mua trước, lại vừa thường xuyên đóng vai tài xế. Dung mà về thì chỉ có việc chăm lo chuyện nấu nướng và coi sóc cửa nhà.

Sợ bất ngờ bị khám phá mà cũng chẳng muốn đối diện để phải trả lời về câu chuyện cưới hỏi với Dân, Dung vội mở cổng bước trở ra ngoài, định bụng ghé thám chị đoàn phó Thanh gần xóm.

Lúc về lại nhà, chỉ còn thấy mẹ nàng đang lay hoay bên chiếc tủ chè, Dung lên tiếng chào qua loa rồi đi thẳng xuống bếp chuẩn bị nấu cơm bữa chiều. Ngay liền sau ít phút, như nàng dự đoán, mẹ nàng thong thả theo xuống, hỏi vu vơ mấy câu về vườn ruộng rồi nhẹ nhàng nói :

- Dung à, mẹ thấy con lớn rồi. Thời buổi này nào đâu còn hy vọng học hành được chi nữa. Mà mẹ thì già yếu, chỉ mong ước được thấy ngày con nên bề gia thất. Chả biết con tính thế nào....

Dung làm bộ bỡ ngỡ :

- Sao hôm nay mẹ tự nhiên lại đem chuyện ấy ra nói  ? Hay là mới đây có ai lại tới làm mai làm mối này nọ, phải không mẹ ?

Bà quản Duyệt chặc lưỡi :

- Nào có ai mối mai xa lạ gì đâu. Mới vừa lúc nãy, chẳng giấu gì con, cả hai vợ chồng ông bà Thơ cùng tới đây mang theo mấy bao trà Tàu làm đầu câu chuyện, rồi nhắc lại việc xin hỏi con cho cậu Dân ấy mà.

Dung bất giác nhún vai nói vừa đủ  cho mẹ nghe :

- Mẹ đừng buồn con. Chả hiểu tại sao, sau nhiều ngày tìm hiểu mình, con vẫn không hề thấy có chút chi gọi là cảm tình với anh chàng ấy cả. 

Bà quản Duyệt hơi biến sắc mặt, nhưng vẫn cố ôn tồn :

- Chỉ tại con chưa biết rõ đó thôi. Dân cũng có ăn có học, nghề nghiệp lại vững chắc, con nhà bề thế. Chả lẽ con chê vì cái dáng dấp bên ngoài của anh ta ?

Dung ngó qua mẹ :

- Mẹ hiểu con hơn ai hết. Nào con có đòi hỏi điều chi quá đáng đâu ! Đơn giản chỉ là con không thấy yêu được anh ấy.

Mẹ nàng như dịu dàng hơn :

- Mẹ tính rồi, tuổi Dậu của con với tuổi Tị của Dân rất là hợp nhau. Các cụ xưa vẫn bảo 'Tị Dậu Sửu tam hợp' là chắc chẳng sai. Còn cái chuyện thương với yêu, rồi ra nó sẽ đến lúc nào mình chẳng kịp ngờ đâu.

Dung vừa bực vừa buồn cười với cái lý luận cổ xưa của mẹ. Nàng cố giữ thản nhiên : 

- Thế còn tuổi của con thì không hợp với những ai ? Bà quản Duyệt bấm ngón tay nói liền :

- Tứ hành xung là Tý Ngọ Dậu Mão. Mấy tuổi này khắc nhau ghê lắm, chớ nên coi thường mà dại dột bước vào.

Dung chợt nhớ mang máng Tường cầm tinh con Rồng, thuộc tuổi Thìn; chắc không ở vào bốn thứ kị mà mẹ nàng mới đưa ra. Thoáng một chút vui trong đầu, nhưng Dung cau ngay đôi mày trả lời mẹ :

- Mình tin theo đạo, tuổi nào chả là tuổi Chúa ban mà còn phải tính toán người hợp kẻ xung ! Con nghĩ chuyện xung với hợp này chỉ là do mấy ông thày bói Trung Hoa bịa đặt ra, chả có chi là nền tảng căn cứ.

Bà quản Duyệt chép miệng :

- Con tưởng mẹ dị đoan mê tín sao ? Các cụ rút bao kinh nghiệm của người đời mới dám lên tiếng dạy ta như thế. Thử mở mắt ngó vợ chồng thằng Phương con cụ cả Phúc thì sẽ rõ : tuổi Dần đi cưới tuổi Hợi phạm tới một tứ hành xung khác nên cả hai cứ đánh lộn cãi nhau hoài. Chúa cho mình trí khôn ngoan để tìm biết những bí ẩn cuộc đời, có chi là trái, là kỳ đâu !

 Dung muốn làm dịu :

- Vâng thì mẹ có lý. Nhưng dù tuổi tác có hại mà tâm hồn chưa cảm chưa mến được nhau thì hãy từ từ đã. Để con cầu nguyện xem ý Chúa thế nào mẹ nhé.

Nghe Dung nói vậy, bà quản Duyệt đành ậm ự gật đầu. Trong thâm tâm, bà vẫn mong đợi sự đồng ý của Dung để mau được thấy ngày con gái cưng lên xe hoa về nhà chồng, đặc biệt ở trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước cũng như của chính gia đình bà giờ đây. Sau lúc nói chuyện với bố mẹ Dân ban chiều, bà càng thêm tin tưởng rằng lấy chồng chỗ này thì Dung tha hồ sung sướng, nhàn hạ; còn phần bà thì cũng vẫn luôn được gần cận với con, không đến nỗi rồi ra phải lo âu chi lắm. Bà lạc quan khi nghĩ rằng Dân vốn được tiếng là khéo léo trong việc xoay  sở tính toán, dẫu ở thời nào chắc cũng sẽ thành công, sung túc. Mà Dung thì xưa nay chân yếu tay mềm, lỡ ra cưới phải chỗ nào nghèo túng lại không biết tháo vát làm ăn, nó hẳn sẽ chịu khổ cả một đời.

Ngọn lửa cùng với ánh than hồng chập chờn từ góc bếp bỗng gợi lên cả quãng đời dĩ vãng của bà. Bà vẫn còn nhớ như in vào óc kể từ ngày xuất giá tòng phu, bao nhiêu vất vả cơ cực đã chồng chất theo tháng ngày, thành ra giờ đây bà không muốn đứa con gái độc nhất của mình rồi mai cũng phải chịu chung số phận. Tuy chồng bà rất thương vợ và cần cù chăm chỉ, nhưng lúc nào bà cũng thấy như không đủ lanh lẹ và mưu kế để đua chen với đời. Thế là gia đình quanh năm ngày tháng phải chấp nhận cảnh đạm bạc thanh bạch. Hai thằng con trai lớn vì không có đủ tiền cho đi học xa nên đành chịu làm gà què ăn quẩn cối xay, để rồi một đứa sớm theo lệnh nhập ngũ mà tử trận trong lúc gia đình đang gặp dồn dập khó khăn. Đến khi có sức đôi chút để ráng gượng lo cho Dung được tiếp tục theo lên lớp tú tài thì hoàn cảnh đất nước  lại bất ngờ biến thay. Bây giờ chỉ còn niềm hy vọng bé nhỏ là nó kiếm được tấm chồng khấm khá, may ra mới thoát được con đường bùn lầy khổ sở đã trói buộc gia đinh cả bấy lâu nay.

Bà cũng không sao quên được, ở cái thời xa xưa ấy, lúc ông bà thân sinh cân nhắc và tính toán thật kỹ lưỡng để quyết định việc hôn nhân của bà. Lúc đó, theo bà nghĩ, chính mẹ bà đã lầm khi lớn tiếng yêu cầu chồng gả con gái cho Duyệt, chỉ vì Duyệt hiền lành đạo đức, lúc nào cũng tỏ ra lịch thiệp biết điều. Qua bao nhiêu biến cố dồn dập, bà đã từng suy tư : giá ý kiến của ông ngoại Dung đã không bị đánh bại thì bà đã cưới Biên, người thanh niên có thiên khiếu làm ăn buôn bán nổi tiếng đương thời. Tuy không ân hận nhiều vì lấy Duyệt, nhưng trong mơ hồ bà ao ước hoàn cảnh mình phải khác, phải là khá hơn, ít ra cho lũ con được cơ hội nở mày nở mặt với thiên hạ.

Ngồi bên cạnh mẹ, Dung cũng phần nào đoán được những ý nghĩ trong đầu óc của bà. Dịp tập tễnh học đi Sài Gòn cất  hàng về bỏ mối, nàng đã thấy mẹ như vui hẳn lên, nhất là ở những lần hàng bán mau lẹ và được giá. Một đôi lúc bà đã gần xa đề cập tới việc để Dân chở hàng giúp sau những chuyến đưa rau từ vùng trên về thủ đô. Dĩ nhiên Dung nhất định gạt đi, cho là mình chả nên lợi dụng người ta lúc thực sự chưa có quan hệ mật thiết thân tình. Nàng thừa hiểu mẹ nào chả thương con và mong cho con được may mắn an nhàn. Nàng cũng biết bà cụ muốn ngó vào dĩ vãng và kinh nghiệm của chính đời mình để gây dựng cho con gái. Khổ nỗi, với nàng, tình yêu phải là chuyện cốt cán hàng đầu để có thể đặt ra những thứ khác xung quanh mà phân tích, mà bàn thảo. Nhiều lần rồi, Dung thực sự đã bình tĩnh thử hỏi lòng về ý kiến và đề nghị của mẹ, nhưng vừa mới chợt suy nghĩ thì như đã có điều chi dội ra thật mãnh liệt, dứt khoát. Một tiếng nói vu vơ từ đâu cứ luôn vang dội trong tâm tư : đời người nào chỉ vỏn vẹn gồm có lợi lộc và sướng vui vật   chất, trái lại nó chỉ có ý nghĩa khi ta gặp được một cái gì cao thượng, vượt hẳn lên trên tất cả những thứ tầm thường của  ngày sống. Gia dĩ, sau những dịp tham dự sinh hoạt đoàn thể này nọ, Dung đã ý thức thật rõ được rằng đời sẽ bị đóng kín để rồi chả mấy mà hoá nên cằn cỗi, nếu người ta không biết mở rộng nhãn giới và tâm tư ra với tha nhân.

Dĩ nhiên, cho đến hôm nay, cái mẫu người nàng hằng ấp ủ bấy lâu cơ hồ chỉ được tìm thấy nơi Tường. Qua những hoàn cảnh khó khăn và sau những áp lực thường xuyên của mẹ nàng, Dung chưa đến nỗi phải đầu hàng, nhưng đùng đùng gạt phăng Dân ra ngoài để đòi cưới Tường thì chắc là chẳng nên. Ngại hơn nữa là cả Tường lẫn Dung đều không muốn ai hiểu rằng các cô các cậu nhào vô sinh hoạt nhà thờ chỉ là để nhằm tìm được người yêu. Trong tâm trạng tiến thoái lưỡng nan, Dung bỗng nghĩ tới mấy nhân vật trong tập truyện Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Dẫu chưa lâm vào cái thế bí tột cùng như Loan để phải chịu lấy một người như anh chàng Thân quê mùa cục mịch, nhưng Dung tự nhiên thấy man mác buồn khi nhớ lại những lời nói và cử chỉ của mẹ nàng.

Sau một đêm ngủ trằn trọc, Dung thức dậy khá sớm để kịp bắt chuyến xe đầu đi Đà Lạt. Nàng hẹn sẽ gặp Tường trước cửa rạp hát Hoà Bình trên khu phố chính. Bà quản Duyệt ra tận cổng dặn dò con thật kỹ về những món phải sắm, nhất là những vị cần thiết cho nồi bánh chưng mà bà nghĩ cả hai mẹ con sẽ cùng thức khuya tối nay để canh chừng. Lên xe, Dung liếc thấy Tường đã ngồi sẵn ở băng phía sau. Gió ban mai thổi thật lạnh qua mấy khe cửa kính, khiến nàng ngồi co lại trong chiếc áo măng tô màu xám tro. Khách đi chợ tết thật đông nên chả mấy mà xe đã đầy người rồi lăn bánh thật mau theo ngược hướng mặt trời mọc. Giọng nói cười ồn ào như át luôn tiếng động cơ xe. Cả Tường lẫn Dung đều giữ im lặng. Dẫu hai người ngồi cách xa tới bốn, năm hàng ghế, nhưng họ mường tượng như đang ở thật gần bên nhau, gần hơn cả lúc nào hết. Cảnh vật hai bên tuy như còn ngái ngủ, nhưng tự nhiên trở nên hấp dẫn lạ thường. Làn sương sớm hiện hình như những áng tơ tuyệt diệu đang quấn quít  lấy nhau. Từ phía sau, mặt trời vừa ló dạng tưởng chừng đang gieo vãi niềm vui cùng với ánh dương đang tỏa lan tứ bề.

Lúc cả hai có mặt ở điểm hẹn, Tường ngoắc taxi, mở cửa cho Dung lên rồi yêu cầu tài xế chạy thẳng ra thác Cam Ly qua ngả đường Duy Tân và Yersin. Dù tin rằng chả ai trông thấy mình, nhưng Dung vẫn cứ hồi hộp tựa như đang ở trong một cảnh phim trinh thám. Đôi tay nàng còn run run mãi cho tới lúc xe gần tới thác nước.

Tường lên tiếng trước :

- Dung đồng ý đi chơi Cam Ly chứ  ? Mấy chỗ khác có thể đẹp hơn nhưng sợ xa quá không còn giờ cho Dung mua sắm. Dung cười, ánh mắt rạng rỡ :

- Anh đã xếp sắp thì...number one rồi. Chỉ sợ chỗ đó quá vắng người vì mới là sáng sớm.

Tường nhìn ra ngoài nói nhỏ:

- Lâu lắm mình mới thoát được đám đông. Anh chỉ lo là dịp tết nên chả mấy sẽ chật ních người. Rồi Tường đặt tay mình lên tay Dung. Cả hai cùng im lặng cho tới khi xe ngừng bánh. Lúc hai người đã leo lên ngồi trên một tảng đá khá bằng phẳng ở sát ngay thác nước, tựa lưng vào một cây thông mọc cao chót vót, Tường vẫn thấy Dung chưa lấy lại được vẻ bình tĩnh, nhịp thở còn như dập dồn, đứt quãng. Chàng đưa mắt ngó quanh rồi chỉ tay lên phía ngọn đồi thoai thoải phía trái nói lớn :

- Trước đây nhà anh ở phía bên kia ngọn đồi này này. Rất tiếc hôm nay chả kịp giờ đưa em lên coi : ấp Du Sinh đó mà. Nghe đồn giờ đây tình hình kinh tế đen tối nên dân chúng rất cơ cực, một số đông đã bỏ đi....

Dung bỡ ngỡ mở to đôi mắt :

- Thiệt hả anh ? Chưa thấy anh kể bao giờ. Chắc hồi xưa anh hay ra Cam Ly này chơi lắm !

Tường lại cầm tay Dung :

- Cũng thỉnh thoảng thôi. Phải chi lúc đó có em thì chắc ra mỗi ngày.

Dung nguýt :

- Anh chỉ nịnh thôi ! Cách mạng về rồi mà còn tán kiểu...Mỹ Ngụy ! Nhà giáo này chắc chưa lột tư tưởng !

Tường hắng giọng nói nhát gừng :

- Thì ừ đấy, giòng máu Ngụy của anh chả bao giờ thay được đâu. Còn em, thử chỉ cho anh cách thức cán bộ lấy lòng các đồng chí... gái ra sao coi.

Dung bấu tay Tường :

- Em đâu có muốn là đồng chí gái của anh !

Tường đùa theo :

- Thế là gì với anh ?

Dung liếc xéo Tường, rồi làm như muốn giận dỗi đứng lên, khiến Tường phải vội đưa tay kéo lại rồi ngồi thật sát bên nàng. Bất giác chàng nắm chặt hai tay Dung, rồi như một phản ứng tự nhiên, âu yếm nhìn thẳng vào đôi mắt nàng. Vừa bối rối lại vừa xúc động, Dung nói khẽ :

- Anh !

Bỗng có tiếng người gọi nhau đâu đây khiến cả hai cùng giật mình rời tay ra. Dung lơ đãng nhìn xuống giọng nước đang chảy xoáy tròn sau tảng đá lớn, bọt trắng giăng ra tung toé. Nàng bỗng nghĩ tới câu chuyện tối hôm trước rồi buột miệng bảo Tường :

- Chiều qua em có chuyện tranh biện với mẹ ở nhà. Chắc bà cụ chẳng vui với em.

Tường tròn mắt :

- Có gì mà em bảo tranh với biện ? Nghe ghê quá !

 Dung mím môi :

- Mẹ em đòi em dứt khoát, sau khi ngồi tiếp chuyện với ông bà Thơ.

Tường khẽ nhíu đôi mày :

- Dứt khoát muốn em nhận lời cưới Dân ? 

- Bà cụ viện ra lẽ này lẽ nọ, anh đoán cũng ra. Nhưng em đã trả lời rằng em không yêu. Sau một lát thinh lặng, Tường hỏi nhỏ :

- Mẹ có đề cập chi đến anh ?

Dung lắc đầu :

- Không. Mà chắc mẹ em cũng chẳng biết giữa mình có chi khác thường với nhau.

Tường lại nhìn thẳng vào Dung : Em định sẽ nói gì với mẹ không  ?

- Chắc rồi cũng phải nói. Có điều....

Cả hai lại nín thinh sau câu nói bỏ dở của Dung. Tường cũng đoán được phần nào lập trường của bà quản Duyệt, cùng với những ước mơ bình thường và thực tế nhất của một người mẹ. Giữa thời buổi đầy căm go lúc này, hình ảnh Dân đương nhiên dễ tạo nên những kỳ vọng to lớn cho các người mẹ có hoàn cảnh như bà quản Duyệt. Từ thâm tâm, Tường  cũng chả nghĩ rằng bà có lý do đặc biệt nào để cản ngăn Dung không được yêu thương chàng hay bất cứ một thanh niên nào khác. Tất cả chỉ là do cái 'mác' làm ăn hiện thời mà bà nhìn thấy ở Dân. Hơn thế, Dân cũng được mọi người biết tới như một chàng trai thuộc con nhà đàng hoàng tử tế, xưa nay chưa bị điều tiếng chi đáng kể trong xóm thôn.

Chẳng ai bảo ai, cả Tường lẫn Dung đều thầm nghĩ tới một ngày nào đó sẽ kẽ hết chuyện hai đứa cho bà cụ nghe; rồi thì tới đâu sẽ tính tới đó. Cho tháng ngày trước mắt của Dung được êm thắm trong bầu khí gia đình. Cho Tường bớt suy nghĩ gần xa về những khó khăn phiền toái ở tương lai. Nhất là làm sao cho mọi diễn tiến luôn được tự nhiên và bình thường, trước khi đi tới bất cứ một quyết định dứt khoát nào.

 Bỗng một đôi chim én từ đâu bay xà xuống ngang đầu hai người làm Dung hốt hoảng nép sát vào Tường. Chàng vội vã vòng đôi tay ôm chặt lấy lưng và vai nàng, như một cử chỉ của âu yếm bao bọc, một  minh chứng của săn sóc chở che. Dĩ nhiên Tường muốn thầm bảo Dung lúc nào mình cũng sẵn sàng hiện diện để ở bên và hỗ trợ nàng. Biết đâu rồi mai đây, ngoài câu chuyện thường tình của gia đình Dung đang gặp lúc này, sẽ còn có những biến cố lớn lao nghiêm trọng bất ngờ xảy đến, để gây đe dọa, để gieo kinh hoàng. Tường cần phải sát cánh với nàng mà cùng phấn đấu, tranh thủ.

Một làn gió thổi mạnh làm mớ tóc Dung rối tung loà xoà kín cả mặt. Tường khẽ lấy tay vén ra hai bên, nhưng bỗng chàng cũng trở nên hoảng hốt khi nhận ra mấy giọt nước mắt đang chảy dài trên má Dung.

Quả nhiên nàng đã khóc, thật bất ngờ, có lẽ vừa do nỗi lo sợ vẩn vơ mà cũng vừa bởi niềm xúc động sung sướng. Như thể lần đầu tiên trong đời Dung được trọn vẹn gần kề người yêu. Tựa hồ bao nhiêu rạo rực với ước mơ của tuổi con gái được sống thực ở giây phút này. Chả biết rồi mai đời sẽ đẩy đưa tới hoàn cảnh và phương trời nào, nhưng có được Tường bên cạnh mãi như giờ đây chắc Dung cũng đủ mãn nguyện. Chỉ cần có thế để tương lai sẽ rạng rỡ tựa vầng thái dương đang chiếu sảng trên nền trời xanh thẳm trên kia, và nhất định tháng ngày sẽ mãi mãi thơ mộng chả khác chi những áng mây bồng bềnh bên trên hàng thông cao ngút ngàn trước mặt.

Trong một khoảnh khắc của cực kỳ rung động thổn thức, Tường ghì chặt lấy Dung, rồi nhẹ nhàng đặt môi mình trên làn môi ướt thẫm nước mắt của nàng. Cả vũ trụ bỗng như hòa tan theo hơi thở nồng ấm và mùi vị mặn đắng của bốn bờ môi. Dung nhắm chặt đôi mắt như để níu kéo lại cái phút giây hạnh phúc đầu đời, tuyệt diệu nhưng xem chừng quá ngắn ngủi. Một dấu chứng của tình yêu đã được gửi trao, vội vàng thôi, đơn giản thôi, mà tưởng chừng mang theo toàn vẹn ý nghĩa của niềm hoan lạc đời người. Nó không chỉ là như những đợt lá đang rụng rơi trên mặt nước rồi bị cuốn trôi đi không còn chút vết tích. Trái lại, khoảnh khắc đó đã thấm nhập vào tâm khảm Dung để ghi lại dấu chân tình đầu cho tới  muôn kiếp, tới ngàn năm. Phút giây ấy cũng là một đổi trao của ước hẹn, của thề nguyền, dẫu chỉ là câm nín nhưng tuyệt đối mãnh liệt, hùng hồn và sâu thẳm tự đáy tâm tư của cả hai.

Và thế là đủ rồi. Chả cần biết sau đây sẽ phải làm gì cho nhau. Đâu cần bàn soạn chi tiết này nọ cho thêm phiền toái. Hai quả tim đã thực sự được gắn chặt làm một bằng chất keo vô hình. Loại keo thương yêu của Dung và Tường đây trong suốt tựa pha lê, không một chút vẩn đục của căn cơ tính toán hay pha phôi bằng những hình thức câu nệ.

Dung đắm đuối như trong mộng ảo. Với nàng, ngoài người yêu ra, cả vũ trụ và thế giới chỉ còn là thừa thãi. Chỉ cần có chàng. Một mình chàng thôi. Chuyện cưới với hỏi bây giờ hoàn toàn là phụ thuộc. Có chàng, phải, để mỗi ngày mình được gọi tên nhiều lần. Có chàng, để đợi chờ một bước chân quen khi chiều xuống. Và có chàng để được soi bóng mình qua một cặp mắt rạng rỡ đầy ắp thương yêu. Dung run lên vì vui sướng. Ai ngờ hôm nay là  buổi hạnh ngộ, cho nàng được chớm hiểu, được thử nếm chút hương vị diễm kỳ của đoá hoa tình bằng tất cả những nồng nàn say sưa nhất ! Và đây, cây cỏ với lá hoa hai bên đã hoá nên tiên cảnh. Thác Cam Ly lúc này vô tình đã trở thành một góc thiên đường.

Phải đợi tới lúc một đoàn người Thượng đông đảo từ hướng đồi phía tay mặt kéo tới lội qua chỗ suối cạn để đem đồ ra chợ bán, Dung mới như tỉnh giấc mơ hoa. Nhìn những chiếc gùi nặng trĩu sản phẩm miền núi, nàng mới sực nhớ tới nhiệm vụ phải mua sắm nhiều thứ hôm nay. Lúc Tường đưa tay đỡ Dung đứng dậy, nàng nghe ê ẩm cả một bên sườn mà trước đó có lẽ không một mảy may lưu tâm để ý.

Trên chuyến xe lam sẵn chờ đưa khách trở lại chợ Đà Lạt, một lần nữa cả hai lại ngồi bên nhau lặng thinh giữa những tiếng lao xao của hành khách. Nhìn ra ngoài, Tường nhận thấy người kéo ra thác vãng cảnh mỗi lúc một đông. Bất giác chàng khẽ mỉm cười nghĩ tới  phút giây vàng ngọc bên Dung vừa rồi. Biết đâu, nếu chỉ chậm trễ đôi chút, kỷ niệm ngày vui sẽ thiếu hẳn nét lãng mạn đậm đà, một khi đu khách đứng đầy chung quanh. Thật ra trong thâm tâm, Tường đã không mảy may ngờ về cái khoảnh khắc thần tiên ấy. Hôm nay rủ Dung ra chơi thác, chàng chỉ mong có được chút thời gian thoải mái bên nhau, để tự do đổi trao tâm sự, để một lần nữa chứng minh hai tâm hồn luôn hoà hợp, và nhất là để thầm hẹn ước sẽ mãi trọn yêu. Giữa cảnh mây nước hữu tình, cả hai đã chỉ nói với nhau thật ít, mà cuối cùng đã hiểu được nhau nhiều hơn cả ước mong.

Dung cũng mang cùng một ý nghĩ giống như Tường cho tới khi xe đổ hai người xuống khu chợ mới. Tự nhiên nàng thấy mình như thêm vững dạ và tự tin hơn. Những khó khăn của tháng ngày trước mắt đã vô tình mờ nhạt đi nơi lòng trí. Vẫn biết tết năm nay ai cũng ưu tư đủ chuyện và cuộc sống bên ngoài đã trở nên khô khan tẻ lạnh hơn nhiều; thế nhưng từ trong tiềm thức, Dung đã mơ hồ nhận  đinh đây là cái tết ý nghĩa và đáng ghi nhớ nhất đời.

Cho đến lúc mua sắm xong rồi ra xe đò trở về Hoa Lâm, nàng vẫn tưởng tượng mình còn ngồi bên Tường trên tảng đá cạnh giòng nước Cam Ly.


TÁM


Cha Huân ngồi bó gối ủ rũ trong chiếc chòi lá mái thật thấp dùng làm phòng tạm giam đã hơn ba hôm nay. Chiếc chõng tre ọp ẹp mỗi lần cha cử động mạnh lại như muốn xiêu vẹo hẳn qua một bên. Chả hiểu sao căn chòi khá rộng mà chẳng thấy công an đưa thêm ai vào nhốt chung nữa. Có lẽ họ còn đang phân vân lúc đầu, nên chủ ý biệt giam cha giữa nơi đồng không mông quạnh này để tránh những cặp mắt tò mò của dân quanh vùng từng biết mặt cha phó Hoa Lâm. Đồn canh cách xa có tới vài trăm mét. Giả thử cha ráng gồng mình để phá chiếc cửa tre bên ngoài mà bỏ trốn giữa ban đêm chắc cũng không khó là mấy.

Cha còn nhớ rõ, lúc công an lên nhà xứ mời cha ra trụ sở xã trước khi được giải lên huyện đây, họ hằm hằm nói lớn trước mặt cha xứ :

- Ông Linh Mục Huân đã mưu toan chống lại chính quyền bằng cách thường xuyên liên lạc với bọn phản động có vũ trang. Chúng tôi được lệnh mời ông đi điều tra.

Dĩ nhiên cha Định đứng sững sờ như trời trồng. Lác đác mấy giáo dân nghe ồn ào chạy lên xem thì bị chặn lại hết. Chưa ai hiểu tình hình ra sao thì chiếc xe Jeep đã vụt phóng đi chở theo cha phó xứ.

Tại đồn công an huyện, nhân viên an ninh chờ sẵn để lấy khẩu cung, nét mặt đằng đằng sát khí :

- Chúng tôi đã có đủ bằng chứng cho biết ông che chở và ủng hộ bọn phản động tự mệnh danh là Phục quốc quân.  Lúc này ông đã sẵn sàng để ký vào bản thú tội hay không ?

 Cha Huân đã qua cơn hoảng hốt ban đầu, mạnh dạn đáp :

- Tôi hoàn toàn phủ nhận điều cáo tội trên đây.

Người công an sừng sổ :

- Thế ông đã từng lén lút gặp các tên Hoành cũng như Xương tất cả bao nhiêu lần ?

Cha Huân suy nghĩ một lát rồi nói ngay :

- Tôi chẳng nghĩ là đã gặp ai lén lút. Ông Hoành và anh Xương cả hai cùng là giáo dân của Hoa Lâm. Họ tới thăm tôi vào hai dịp hoàn toàn khác nhau. Tôi được hiểu rằng họ di chuyển về Sài Gòn làm ăn, nhân dịp về đây có việc, họ ghé thăm tôi, có thế thôi.

Tên điều tra trợn mắt bắt bẻ :

- Sài Gòn ! Sài Gòn ! Ông có biết thành phố ấy đã mang tên mới hay chưa ?

 - Xin lỗi tiếng Sài Gòn quá quen lâu nay. Khi nói vội tôi dễ quên.

- Từ lâu nay, ông đã để lộ con người phản động của mình nhiều lần rồi. Chúng tôi cho ông biết, chẳng có mưu toan nào của ông lọt qua nổi mắt công an đâu. Bây giờ tên Hoành đã bị bắt. Còn tên Xương chắc cũng chỉ nay mai thôi. Rồi khi đối chất với cả hai, ông sẽ hết đường chối cãi.

Cha Huân cũng hơi thấy bàng hoàng. Chả lẽ câu chuyện xảy ra quả như vậy sao ! Dịp ông Hoành và Xương lên thăm, thật ra họ cũng chỉ đề cập vu vơ tới tình thế đất nước. Theo cha, dù họ có thực sự là cán bộ Phục quốc, cả hai cũng chỉ dám thăm dò phản ứng của Linh Mục phó xứ một cách nhẹ nhàng xa xôi. Cộng sản muốn ngăn chặn nên phải làm như to chuyện để có cớ khủng bố từ đầu. Do đó, cha bình thản đáp :

- Hai người ấy dù có làm gì sai quấy, tôi cũng chẳng thế nào biết được. Khi họ lên thăm nhân danh bổn đạo cũ, làm sao tôi có lý do để khước từ họ !

- Ông đừng chối cãi nữa. Nếu thành khẩn khai hết những gì đã bàn bạc với họ, chính phủ sẽ khoan hồng. Trái lại, nếu nhất định ngoan cố, chúng tôi sợ lúc đó dù ông có hối hận cũng quá muộn.

Suốt mấy ngày liền, công an cứ quay đi quay lại cái công thức tra vấn tương tự. Mãi cho tới chiều hôm nay, trước khi đưa về lại căn chòi này, công an bắt đầu hạch hỏi với mấy chi tiết mới : 

- Ai cũng nhìn thấy rõ ông thường xuyên dụ dỗ xúi bẩy đám thanh niên nam nữ chống lệnh nhà nước, mượn nhà thờ với giáo dân làm bình phong để cản trở các sinh hoạt cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Tệ hơn nữa, ông đã đầu độc lũ nhi đồng thơ ngây để chúng có ác cảm với chế độ. Chính ông đã bày mưu cho ông Định làm nhiều điều phản động. Rồi đây chúng tôi sẽ hỏi tội đến ông ta.

Nhất nhất, cha chỉ lên tiếng đáp lại bằng cách trình bày mọi chuyện với cái nhìn trưng thực của một người có trách nhiệm hướng dẫn tôn giáo. Tuy nhiên, cha đã biết, hai bên như nước với lửa, chả  đời nào chịu nhau. Có hùng hồn biện hộ cách mấy, người ta cũng đâu thèm nghe. Cá nằm vào thớt và chim đã ở trong lồng. Đành tâm phó cho số phận. Chỉ có thế !

Cha thở dài dựa lưng vào cây cột gỗ thông sần sù ở giữa căn chòi. Làn gió lùa vào kẽ mái tranh bỗng nghe thật buồn thảm đìu hiu. Trời đã xẩm tối, cơn nóng đầu Hạ cũng dịu theo ánh tà dương. Tiếng chim kêu chiêm chiếp vọng lại từ phía chân núi như cũng gợi thêm nỗi vắng lặng thê lương.

Đã từ lâu, cha thầm đoán thế nào rồi cũng sẽ xảy ra cho mình một biến cố tương tự thế này. Người ta phải làm một cái gì để khủng bố tinh thần những kẻ được coi là đối nghịch hàng đầu với chế độ. Cộng sản đời nào chịu đi đôi với đạo, nhất là cỡ đạo có... sạn trong đầu như Công giáo ! Khi được dịp trả thù, nhà nước thẳng tay bắt bớ đàn áp, viện ra trăm ngàn cớ khác nhau.

 Theo thói quen, cha đưa tay vào túi lấy xâu chuỗi ra đọc kinh, nhưng chợt nhớ lại công an đã tịch thâu mất từ lúc lấy  khẩu cung. Bất giác cha ngước mắt nhìn qua chút kẽ hở giữa mái chòi với tấm đà ngang trên đỉnh bức vách, cố tìm ra một ánh sao lạc lõng nào đó giữa bầu trời u ám thẫm đen. Bỗng dưng, như một hậu quả tình cờ, tâm tư cha được tập trung để hướng trọn vẹn về cõi bao la cao thẳm trên đầu, và rồi cha tự nhiên thấy đất với trời gần kề nhau chỉ như gang tấc. Một niềm vui thanh thản chợt toả lan trong hồn cha : thật rõ ràng một bàn tay nhiệm lạ đang chạm tới toàn thân để khơi động lên một sức an ủi mãnh liệt khôn tả. Phải rồi, ơn trợ lực siêu nhiên chắc hẳn đã được thể hiện ở những phút giây gian nan nghiêm trọng nhất của đới cha như lúc này.

Cha nhắm mắt tưởng nghĩ tới hàng trăm đồng nghiệp khác đang chịu cùng cảnh ngộ, chỉ vì cái lý tưởng họ ôm ấp. Làm Linh Mục cũng có nghĩa là làm môn đệ của đấng chịu nhục nhã đau thương trong cái án thập tự hãi hùng ngày xưa. Mà môn đệ đích thực nào cũng phải bước theo đường thày mình đã đi. May mắn là vị tôn sư ấy đã chiến thắng tất cả và hứa sẽ chia sẻ cái hào quang chiến thắng ấy cho những ai đám bước theo vết chân Ngài.

Sau trọn năm ngày bị giam riêng như thế, cha bị giải qua lao xá công cộng. Đây là mấy dãy nhà mới được xây rất kiên cố nhân dịp chính quyền rời trụ sở huyện về thị trấn Mơ Long này. Các phòng giam đều chật ních người, lại thêm tiết trời tháng năm đã bắt đầu oi ả, nên bầu khí nhà tù thật là căng thẳng khó chịu. Đêm đầu tiên cha tưởng như không sao chợp mãi nổi.

Sáng sớm hôm sau, lúc mọi người theo lệnh còi ra sân điểm danh và tập thể dục, cha nhận ra có đến cả chục khuôn mặt quen thuộc, trong số đó gần phân nửa là giáo hữu Hoa Lâm. Ai nấy thầm cúi chào lúc gặp ánh mắt cha, đồng thời lộ ngay vẻ căm phẫn vì thấy chính quyền bắt đầu khủng bố các nhà tu hành. Tới khoảng xế trưa, được tới phiên ra giếng nước tắm giặt, cha chợt giật mình vì nghe có tiếng chào từ phía sau lưng : 

- Thưa cha phó, con là Mẫn ở khu Phê Rô đây. Con mới bị bắt sáng hôm qua, không can tội ủng hộ và tiếp tay cho Phục quốc quân, nhưng bị vu là phao đồn tin thất thiệt làm lợi cho địch.

Cha Huân vừa mừng khi gặp lại được người giáo dân cũ, nhưng lại vừa thấy nhột khi nghe anh nói tới mấy chữ Phục quốc. Làm bộ cúi xuống vò chiếc khăn tay, cha hỏi nhỏ :

- Xứ Hoa Lâm có chuyện gì lạ không ?

Người thanh niên cũng giả vờ như bắt đầu giặt quần áo rồi nói vừa đủ nghe :

- Các ông trùm bốn khu mới được lệnh mỗi chủ nhật phải lên xã học tập mấy giờ đồng hồ. Xem chừng vị nào cũng ngao ngán lắm. Riêng thày Hào thì có lẽ được tha về ngay sau hôm họ bắt cha đi : ai cũng hiểu đây là một mánh khoé họ mong làm dịu lòng dân căm phẫn; có điều họ muốn thày ấy tình nguyện về ở với người cháu, thay vì trở lại nhà xứ. 

Cha Huân mím môi, vẻ mặt như đăm chiêu rồi tự nhiên liên tưởng ngay tới trường hợp của mình. Biết đâu họ sẽ chẳng giở cũng một cái trò 'tình nguyện' ấy ra để dụ dỗ cha ! Bỗng dưng, cha thấy có tiếng nói từ trong đầu thật là mãnh liệt : Không bao giờ sẽ để Cộng sản lừa bịp. Trước sau phải dứt khoát giữ vững lập trường. Hoàn cảnh già yếu của thày Hào đây khác với hoàn cảnh mình. Mà thày già chỉ là một trợ sĩ, thiếu thày, giáo dân có thể ráng thay nhau phụ trách công tác nhà thờ được. Còn cha, một Linh Mục, ai sẽ thế cha để làm lễ, để giải tội, để xức dầu bệnh nhân ? Bao nhiêu sứ mạng người người chờ trông. Nghe họ dỗ dành nào có khác chi phản bội với lý tưởng !

Mẫn phá ngang những suy tư của cha :

- Cha xứ có nhờ người tiếp tế thăm nuôi. Cha đã nhận được gì chưa ?

Cha Huân khẽ gật đầu :

- Có, thày giáo Tường có đưa quà cha xứ lên hôm đầu tuần. Có điều là, không như những can phạm khác, tôi bị công an cấm gặp mặt bất cứ ai từ bên ngoài.

Bỗng có tiếng la lối của người cán bộ quản giáo đâu đây, khiến tất cả cùng phải lặng thinh. Sau đó, hai người chỉ kịp trao đổi vài chuyện vu vơ khác trước khi nghe kẻng báo tập họp.

Cuộc sống trại giam cực khổ thật, nhưng cha luôn thấy mình còn khá may mắn, vì tinh thần vẫn tạm đủ sáng suốt và vững mạnh. May hơn nữa là không còn cảnh vắng vẻ ghê rợn của những ngày biệt giam ban đầu. Mà ở đây, đa số các can phạm đều bị ghép vào tội chính trị nên họ rất hiểu và thương mến nhau. Được cùng chia sẻ những vui buồn với họ, cha tự nhiên thấy vai trò Linh mục của mình bỗng như có thêm ý nghĩa. Dĩ nhiên, đa số đã biết tông tích của cha nên ai nấy xem chừng luôn tỏ vẻ kính phục. Nhiều người đã phần nào thấy lên tinh thần qua sự hiện điện của cha nơi nhà giam này.

Chỉ vài hôm sau, cha đã được nghe truyền tai đủ mọi điều, từ những tin đồn chính trị cho tới những cầu chuyện nói lên tâm tư uất ức của dân chúng toàn vùng. Gia dĩ, nhiều lúc cha còn thấy vui lây qua những mẩu chuyện cười chống Cộng dí dỏm. Cũng qua họ mà cha học thuộc được một 'câu đối' thời cuộc đáng ghi nhớ : Đả đảo Thiệu Kỳ, mua gì cũng có -  Hoan hô Hồ chí Minh, cần mua cái đinh tìm hoài không được !

Có một điều mà lúc nào cha cũng ráng nhủ mình phải hết sức thận trọng, thay vì hăm hở tin theo ngay, đó là những chuyện đồn đãi về các hoạt động và thành tích của các toán quân Phục quốc trong rừng. Hầu như ngày nào cũng thấy đám can phạm rù rì kể cho nhau nghe một hai mẩu tin sốt dẻo loại này. Những mục đồn đãi ấy trở thành trắng trợn tới độ cha buộc lòng phải sớm đặt một dấu hỏi to lớn trong đầu. Hơn nữa, theo chút suy luận đơn giản của cha, rất có thể chính những cán bộ Cộng sản đã cố ý tung ra những tin đồn vô căn cứ này, hầu tạo nên chút mơ ước hão huyền cho một số, để rồi kẻ nào dại dột dựa vào các mẩu tin ấy mà  nói năng hay hành động chi chống chính quyền, sẽ lập tức bị sa lưới công an ngay.

Chả mấy, điều suy đoán của cha đã trở thành sự thật. Bảy tám tù nhân, bởi quá hồ hởi về những tin giật gân về kháng chiến, đã ngầm rủ nhau tổ chức đảo chánh nhà giam, đinh ninh rằng đêm đó có quân từ rừng kéo ra giải phóng huyện. Tội nghiệp, cả bọn đều bị xử bắn tàn nhẫn trước mặt mọi người.

Cũng có một lần, nhân dịp đi lao động đốn củi bên bìa rừng, thừa lúc rảnh rỗi và vắng lính canh, Mẫn dẫn một anh bạn khác tới gần cha Huân tỉ tê :

- Thưa cha, chúng con đang có một kế hoạch vượt ngục rất tinh vi. Nếu cha đồng ý, tụi con sẽ đợi lúc thuận tiện nhất để đưa cha đi trốn.

Cha Huân bỡ ngỡ hồi lâu mới thong thả hỏi :

- Cảm ơn hai anh, nhưng tôi trốn rồi đi đâu ? 

- Cha cứ theo chúng con. Anh em Phục quốc chắc cũng cần có cha làm tuyên úy.

Cha Huân cười : Nhiệm vụ của tôi là làm việc với dân Hoa Lâm. Tôi sẽ chờ ngày trở lại nhiệm sở.

Mẫn nắm chặt hai tay :

- Người ta sẽ không cho cha làm việc nữa đâu. Sao cha quá lạc quan như vậy !

- Tôi không lạc quan quá đáng, nhưng cũng không đến nỗi bi quan. Họ không có chứng cớ nào để kết án tôi. Tôi bị đưa vào đây chắc chỉ vì họ muốn dằn mặt cảnh cáo.

 Anh bạn của Mẫn như không đồng ý:

- Xin cha nghĩ lại. Bọn Cộng sản nó dã man lắm : không có tội nó cũng cố bới cho ra. Chả đời nào nó bắt cha rồi nay mai thả về để thiên hạ kháo láo rằng nó bắt lầm !

Cha Huân cắt ngang :

- Đồng ý là thế, nhưng họ có trăm ngàn cách để nói. Mục tiêu của họ là khủng bố tinh thần mình, một khi họ thấy chưa có cơ hội để tiêu diệt.

Mẫn lớn tiếng :

- Thế cha không nghe những gì đang xảy ra ở xứ Hoa Sơn, ở dòng Châu Lâm, cũng như ở nhiều chỗ khác sao ?

Cha Huân tròn mắt :

- Xảy ra gì  ?

Mẫn nhìn thẳng vào cha Huân :

- Cha xứ Hoa Sơn đang bị đem ra bếu riễu làm nhục. Họ bắt các giáo dân toàn vùng phải học tập phê bình để kết tội cha. Tất cả cũng chỉ vì một chuyện sơ sẩy cỏn con. Còn bên tu viện Châu Lâm, cha bề trên cùng với bốn năm cha khác mới bị bắt đi mất tích mất hôm nay rồi. Họ ngang nhiên xông vào tịch thu gạo nước thực phẩm giữa ban ngày. Chả ai dám đứng ra phản đối phân trần gì cả !

Cha Huân như xúc động :

- Mình nên coi đây như những điều Chúa thử thách. Dĩ nhiên chả ai muốn thế nhưng một khi biết can đảm vui chịu, mình vừa có dịp đền tội, lại có cơ hội lập công. Rồi ra Chúa sẽ cất bớt thánh giá.

Lúc Mẫn và người bạn đã bỏ đi, cha Huân một mình ngồi im lìm như bất động. Đôi tai cha xem chừng bị ù đặc không phân biệt nổi cả tiếng chim kêu hay tiếng gió vèo qua khe lá. Mãi tới lúc người công an thổi còi ra lệnh tập họp đưa tù về, cha mới như ý thức lại được mình đang ở đâu.

Tối về, ngả mình trên chiếc chiếu cói nhỏ bé được trải trên nền xi măng, cha bắt đầu thấy ê ẩm cả hai vai. Tuy nhiên, điều ưu tư chính yếu vẫn là ở trong tâm khảm. Từ lâu, cha vẫn thường xuyên hiểu rằng Chúa đang tạo thử thách cho mình có dịp chứng tỏ niềm cậy tin, nhưng làm sao để nguôi hết được những lo âu căng thẳng nơi dạ nơi hồn ! Sống trong trại giam, ai dám hiên ngang nói mạnh mình không còn biết sợ hãi điều chi nữa ? Giờ đây, ừ thì phó thác cho bàn tay Chúa quan phòng, nhưng là con người, dễ gì giữ mãi cho mình được trọn vẹn an vui và bình thản !

Nằm sâu trong niềm thao thức của cha hơn cả vẫn là cái chi tiết về thày Hào phải ra ở nhà người cháu. Với cha, qua sự kiện này, nhà nước đã không muốn kết án nặng nề cho người tu sĩ già. Họ biết, dù có làm cũng chỉ tăng thêm lòng căm phẫn của dân chúng. Tuy nhiên, họ đã loại trừ được một cái gai gây phiền cho họ, mà vẫn được tiếng là tử tế, là khoan hồng.

Đương nhiên, càng suy nghĩ về câu chuyện thày Hào, cha càng lo sợ ngày nào đó người ta sẽ tìm cách loại mình ra khỏi 'vòng chiến' bằng cũng một hình thức tương tự. Đôi ba lần, cha đã nghe kể từ đám dân thuộc miền Bắc vào sau ngày đất nước thống nhất, rằng một số các vị chủ chăn ngoài đó cũng bị cấm thi hành nhiệm vụ sau khi được thả về từ trại giam. Thày Hào khai có thân nhân là mẹ con bà Thục. Còn ở trường hợp của cha, phải chăng người ta sẽ đưa cha về vùng Biên Hoà sống với ông bà cố thân sinh ? Như  thế có nghĩa là cha sẽ phải chia tay với Hoa Lâm vô hạn định ? Và như thế cũng là báo hiệu một khúc quanh đen tối cho cuộc đời tông đồ của cha ? Cha thầm nghĩ, dẫu mình chưa một lần dám tự sánh ví với ngài Địa tạng Bồ tát bên nhà Phật, vị cao tăng được truyền tụng là sẵn sàng ở lại trần gian cũng như bằng lòng xuống cả âm phủ để cứu độ các vong hồn tội lỗi, nhưng vì đời mình đã một lần định hướng cho lý tưởng cao đẹp, mình phải học kiên trì thi gan cùng tuế nguyệt như người ngư phủ trong truyện Ông lão và Biển cả của nhà đại văn hào Hemingway. Nếu nẻo đi ấy chẳng may gặp trở ngại chắn ngang để phải nửa đường đứt gánh mà lìa xa đoàn chiên, chắc cha sẽ sầu hận cả đời.

Vô tình cái ý tưởng u ám đó cứ chạy vòng quanh trong đầu khiến cha phải thao thức giờ lâu giữa tiếng gáy rền vang của những người bạn tù. Cha biết đêm đã khuya lắm rồi. Gió bên ngoài thổi rú từng cơn qua lớp mái tôn cũ kỹ, lâu lâu lại đập vào nhau tạo thành những âm thanh ghê rợn chát chúa. 

Bất giác cha đưa những ngón tay gầy guộc lên đếm thời gian. Thụ phong Linh Mục mới chưa được sáu năm trời. Quả là quá sớm nếu phải chấm dứt con đường thiên lý ở đây. Tuổi cha cũng mới sấp sỉ tuổi Chúa Ki tô khi ngài chịu án thập hình. Mà Chúa chỉ mới ra giảng đạo công khai trước đó vỏn vẹn ba năm. Dẫu mình đã nối gót Chúa để phục vụ có gần gấp đôi khoảng thời gian đó, nhưng cơ hồ mình chưa làm được chút gì. Sứ mạng còn trùng điệp ngổn ngang. Những điều đã thực hiện đúng ra chỉ là những bài học vỡ lòng của một cuộc hành trình vạn dặm đang đón chờ trước mắt. Bao nhiêu vụng về với sa sẩy hằng bao quanh mọi công tác tông đồ mục vụ. Thành ra cái khuôn mẫu cao vời của Chúa vẫn còn như thăm thẳm mù xa.

Cha ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Tới lúc kẻng đánh thức tù nhân vang lên, cha vẫn thấy hai cặp mắt cay xè. Sau đó, khi bất thần được lệnh lên tái thẩm vấn trên văn phòng, cha bỗng thấy toàn thân mệt lử như bị ai dần.

Lần này, viên thủ trưởng công an bắt đầu với giọng rất nhẹ nhàng êm ái :

- Chúng tới biết có thể ông không thực tâm chống lại chính quyền, nhưng những lời lẽ, cử chỉ và thái độ của ông quả thật rất là nguy hại. Bây giờ, để chứng minh sự thẳng thắn của minh, ông hãy lần lượt ghi chép lại đầy đủ nội dung các bài giảng lễ của ông từ dăm sáu tháng nay. Nhà nước sẽ dựa vào đó để đối xử tốt với ông.

Cha Huân chậm rãi :

- Tập ghi 'nốt' bài giảng tại phòng tôi các ông đã tịch thu. Xỉn các ông cứ đọc sẽ rõ tôi đã nói những gì với giáo dân.

Tên công an tỏ vẻ không hài lòng :

- Những cái viết lên giấy và những điều nói ra ngoài nhiều khi rất khác nhau. Bây giờ yêu cầu chính ông kiểm điểm lại những bài đã giảng trước nhân dân. Chúng tới được báo cáo rằng ông đã khích động giáo hữu qua những lời nói đầy ý nghĩa chính trị. Đặc biệt chúng tôi không quên ngày ông đem câu chuyện  con rồng màu đỏ ra để bài bác chủ nghĩa Cộng sản.

Cha Huân đan chặt hai bàn tay :

- Tôi chỉ trình bày cho dân chúng về ý nghĩa tôn giáo, dựa vào những chi tiết của Thánh kinh. Chúng tôi hiểu con rồng đỏ là ma qủy, thù địch của Chúa, của Giáo hội. Dĩ nhiên ma qủy dùng nhiều hình thức để làm hại cho đạo. Tôi không muốn kết luận về bất cứ điều gì khi chưa có chứng cớ.

Viên thủ trưởng trợn mắt :

- Điều chúng tôi muốn ống phải thú nhận ở đây là chính ông đã lợi dụng tôn giáo để chỉ trích Đảng và Nhà nước, gây hoang mang hận thù nơi dân chúng.

Cha Huân vẫn hăng hái :

- Cùng lắm là tôi đã phân tích sự khác biệt giữa những người tin đạo và những kẻ vô thần. Khi tôi theo Chúa, đương nhiên tôi phải chứng minh rằng tôi đúng và kẻ không theo là sai. Chỉ có thế. Còn bảo tôi xúi dân chúng chống lại Nhà  nước thì tôi hoàn toàn phủ nhận. Bây giờ tôi xin nói lại một lần nữa : qúy vị không thích tôn giáo thì tùy ý qúy vị, nhưng đừng vì thế mà lên án những người như chúng tôi. Rõ ràng hiến pháp đã minh lịnh về quyền tự do này.

Cuộc thẩm vấn cứ luẩn quẩn ở mấy điểm tương tự. Kết quả là họ ép buộc cha phải viết lại nội dung các bài giảng mấy tháng trước ngày vào tù. Theo lời cha yêu cầu công an cũng hứa sẽ trả lại những tờ viết dàn bài của các lễ chủ nhật. Cha hiểu đây cũng chỉ là một cách họ muốn hành mình cho bõ ghét, chứ thực sự họ chẳng có mảy may chút bằng chứng cụ thể nào để luận tội. Thế là cha nhận cho xong.

Tối hôm đó, lúc quản giáo đã khoá cửa nhà giam, các tù nhân lại truyền tai kháo láo nhau về tin đồn lực lượng Phục quốc mới chiến thắng một trận lớn ở khu Rừng Lá gần Bình Tuy. Anh em còn đồn rằng hai tướng Nguyễn cao Kỳ và Bùi thế Lân đã từ ngoại quốc về chỉ huy lực lượng này. Thoạt nghe thì cha cũng thấy vui vui trong bụng, tự hỏi phải chăng người Mỹ  đang có một kế hoạch gì ngoạn mục mới lạ. Tuy nhiên, từ thâm tâm, cha vẫn vô cùng ngờ vực. Quân đội Cộng hoà xưa với con số binh sĩ và khí giới hùng mạnh thế mà còn tan rã, dù tan là do hoàn cảnh chính trị phức tạp hay lãnh đạo kém cỏi; bây giờ thế cờ đã lật ngược, dễ gì mà mưu chuyện đổi với thay một sớm một chiều !  Hoạ chăng là xử dụng bom nguyên tử ! Nhưng còn hai ông to đầu Nga sô và Trung quốc kia, làm sao họ chịu ngồi bó tay ! Thời buổi này làm gì có nổi chuyện Một Trăm Lẻ Tám Anh Hùng Lương Sơn Bạc tái sinh để bà con được dịp chứng kiến một màn Thủy Hử tân thời ! Thành ra, đầu óc cha lại phải vật lộn giằng co với bao ý nghĩ viển vông đen tối. Biết đâu vì những hoạt động của các anh em trong rừng mà Cộng sản kiếm cớ gia tăng mọi hình thức đàn áp và khủng bố.

Tự nhiên cha thấy ngày về như hoàn toàn vô vọng. Chập chờn trong cơn buồn ngủ mệt mã, cha bỗng tưởng tượng đến hình ảnh chàng Tô Vũ đời Hán bên Tàu thuở xưa. Qua câu chuyện bị chúa Hung Nô bắt giam nhân dịp đi sứ, anh  chàng họ Tô này đã biểu trưng cho một mẫu gương nhẫn nhục kiên gan sau cả gần hai mươi năm trời tù tội. Với trường hợp của cha lúc này, người ta không đòi điều kiện phải có dê đực đẻ con để cha được tha về như trường hợp của Tô Vũ, nhưng với những biến chuyển phức tạp của thời cuộc hôm nay, nào ai biết được bao giờ mới chấm dứt thời gian cá chậu chim lồng này !

Ngoài trời mưa rả rích như gợi thêm nỗi buồn đã vốn lê thê, da diết. Thỉnh thoảng lại vang vọng tiếng ếch nhái kêu như góp cho đủ nét u tịch não nề. Càng ngày cha mới càng thấy thấm câu nói 'nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại'. Ai dám bảo đảm rằng mình sẽ mãi vững tâm bền chí trong những trường hợp thế này ! Thân xác cùng mỏi mòn theo với tinh thần. Càng khổ đau chua xót, xem chừng nội tâm lại càng vươn dậy những thèm khát ước ao về những điều đang thiếu đang mất. Cửa nhà giam có tác dụng như vỏ bom, càng khép kín lại càng có hấp lực phải được nổ tung ra giữa không gian lớn rộng. Tâm tư lúc này cũng  vì thế mà mơ ước được giải toả, được khai thông. Thực tế là cả nội ngoại như cùng toa rập, cùng rủ nhau hướng về các hình thức thỏa mãn để được bù trừ : tứ bề ẩn hiện các đòi hỏi của giác quan, những cám dỗ của lòng trí, ngổn ngang quay cuồng trong một tâm tưởng bàng hoàng run rẩy tưởng chừng khôn nguôi.

Cha nhẹ kéo tấm mền đắp kín lồng ngực. Tiếng gió rít như càng mạnh hơn qua lùm cây trước nhà. Lại một đêm thao thức chờ giấc ngủ. Cha biết rõ mình chả bao giờ chủ ý suy nghĩ chi cho mệt thêm, nhưng từ đâu muôn vàn ý tưởng cứ trùng điệp kéo tới cho đầu óc rã rời trĩu nặng. Trong mơ hồ, cha chợt nhớ lại đã mấy lần nghe kể về trường hợp của một số Linh mục Tu sĩ bị công an liên tục doạ nạt, rồi dỗ dành chỉ cần đồng ý trên nguyên tắc rằng sẽ chấm dút chuyện tu là sẽ được tha về thanh thản. Cái trò ấy với cha lúc này sao nó ghê tởm quá, đốn mạt quá. Cha thầm nghĩ, dẫu giờ đây, nhằm dụ mình bỏ cuộc, họ có tìm ra và đem biếu mình trái đào 'trường sinh' của ngài Tây Vương Mẫu nào đó trong thần thoại cổ để mình ăn rồi được bất tử, mình cũng sẽ nhất quyết chối từ.

Tuy nhiên, chỉ liền sau đó một khoảnh khắc, cha thấy mình như lo âu trở lại. Rõ là trong tình trạng căng thẳng, người ta thường hay nghĩ quẩn. Chuyện này bây giờ là đúng, nhưng chả mấy lại hoá ra sai. Thành ra cha liên tục sống trong hoang mang nghi hoặc để rồi không ngừng tự nhủ : Tinh thần minh mẫn nhưng xác thân nặng nề ! Lời Kinh thánh đời nào sai được; bởi mấy ai mà chẳng úy tử tham sinh, và tuy bình thường chả bao giờ mình chịu khuất phục, nhưng lỡ ra có ngày sẽ bất ngờ cùn nhụt hết chí khí thì sao !

Cái luẩn quẩn mâu thuẫn ấy thực sự đã làm tâm tư cha phải quay quắt lúng túng hơn cả, khi cha bất thần nghĩ tới hình ảnh vị đại tông đồ Phao Lô, cũng nhiều phen ra tù vào khám ở thời khai nguyên Ky Tô giáo. Vào lúc đầu, cái mẫu gương can đảm hào hùng ấy đã phần nào giúp cha thêm phấn chấn trong ý nguyện trung thành và bền vững theo bước  đường phục vụ hiến thân cho tới cùng. Nhưng rồi cũng liền đó, cha lại vần vơ tự nhủ : chẳng thà mình bị bắt vì tội chống lệnh cấm giảng đạo như Phao Lô thì cũng cam. Đàng này người ta bẻ quặt sang những thứ lỉnh kỉnh khác để lấy cớ giam cầm, hành hạ. Thật đúng như có kẻ đã nhận xét, Cộng sản không muốn cho phép ai được mang danh là tử vì đạo; nghĩa là, dẫu có phải án tử hình hay chết rũ tù đi nữa, cũng sẽ bị gán cho là tội nhân chính trị hay can phạm hình sự nào đó mà thôi. Nạn nhân sẽ vì thế mà ngày đêm phải sống trong hoang mang bối rối.

Thế là cha lại trải qua một đêm dài nữa với những suy tư day dứt tương tự. Giấc ngủ chỉ đủ để thấy khuôn mặt thêm hốc hác vào lúc kẻng đánh thức sáng hôm sau.  


CHÍN


- Sao con lại nói với cô y tá từ mai sẽ chấm dút việc tới chích ? Con đã khỏi hẳn đâu ! Nước da còn xanh lắm mà....

Nghe lời mẹ trách, Dung xoay người ngó ra phía ngoài. Nàng bị cảm lạnh khá nặng nên phải liệt giường cả bốn năm hôm nay. Cô y tá quen đến chích thuốc cho biết cuống phổi nàng hơi bị sưng. Dĩ nhiên mẹ nàng vô cùng lo lắng. Việc quyết định thôi chích thuốc làm bà không hài lòng. Đợi lúc mẹ vạch mùng ngồi xuống mé giường, nàng chậm rãi nói 

- Con nghe đỡ nhiều lắm rồi mẹ ạ. Mẹ không thấy con đã ăn được khá rồi đó sao ? Đợi tĩnh dưỡng thêm vài hôm chắc con sẽ khoẻ hẳn.

Bà quản Duyệt vẫn như áy náy :

- Con bị cảm nặng. Thà cứ chữa cho thật kỹ còn hơn. Lỡ ra bị lại thì hậu quả thật khôn lường.

Sau một lúc yên lặng, bà cầm tay Dung nói nhỏ :

- Con đừng làm mẹ lo.

Dung cảm động nắm lại tay mẹ :

- Mẹ cứ yên trí, con sắp khỏi rồi mà !

Đã từ mấy hôm nay, bà quản Duyệt bất ngờ nêu câu hỏi trong đầu về Dung. Bà ngờ vực chuyện buồn về tình duyên đã gây nhiều ảnh hưởng cho cơn đau của con gái. Nhưng rồi Dung vẫn kín đáo chưa một lần tỏ ra điều chi để bà có thể đặt vấn đề cho ra đầu ra cuối. Giờ đây bà thấy như đã tới lúc thuận tiện để tìm hiểu cho rõ, nên lên tiếng hỏi : 

- Dung à, việc mẹ đề nghị con cưới Dân phải chăng đã làm con khổ tâm quá nhiều ? Nếu quả thật con không ưng thì cứ cho mẹ biết để mình tính mình liệu cách khác. Chớ nên…

Dung cắt ngang, giọng run run :

- Không phải đâu mẹ ạ. Con đã thưa với mẹ là con luôn muốn chân thực với mẹ cũng như với chính lòng con. Chưa có cảm tình với Dân, con đã hơn một lần thưa cùng mẹ. Có chi là phiền toái khổ não quá đáng đâu. Con vẫn tin mẹ luôn hiểu con mà !

Bà quản Duyệt như trịnh trọng :

- Mẹ hiểu con. Dẫu sao con cũng phải thấy rõ : mẹ chờ mong từng phút từng giây để được thấy ngày con nên bề gia thất. Con dư biết câu tục ngữ : Nuôi con những ước về sau, trao tơ phải lứa gieo cầu đáng nơi. Nhất là từ buổi loạn lạc, tình thế đổi thay xem ra càng lúc càng khó khán ngặt nghèo, một ngày qua là một ngày mẹ thấy lo lắng. 

Dung như xúc động khác thường. Trong khoảnh khắc, nàng tự hỏi phải chăng đã tới lúc để thú thật cùng mẹ về mối liên hệ với Tường. Từ thâm tâm, Dung rất sợ hãi nếu có ngày thấy mẹ phản đối mối tình mình đang ôm ấp. Thôi thì trước sau chi cũng phải nói ra. Dung lấy hết bình tĩnh lên tiếng, sau khi ho ran mấy cơn liền :

- Mẹ à, mẹ đừng giận con nhé. Con muốn kể thật ra hết với mẹ về những gì con còn đang giữ trong lòng cho tới hôm nay. Mẹ có cho phép con nói không ?

Bà Duyệt hơi ngỡ ngàng :

- Con có tâm sự riêng ? Sao lại cứ phải giấu ? Mẹ có bao giờ muốn làm khó dễ với con đâu !

Dung rưng rưng :

- Con biết, nhưng tại chuyện này nó chưa đâu vào đâu. Vả lại con chưa tìm được lúc thuận tiện để giãi bày với mẹ, chỉ sợ.... 

Bà Duyệt lại nắm chặt lòng bàn tay con gái rồi vồn vã hỏi :

- Chắc con đã để ý tới người nào khác ?

Dung ngước nhìn lên mẹ, đôi mắt long lanh :

- Vâng, mẹ đã đoán được cả rồi. Có thể mẹ cũng có đôi lần nghĩ là con đã yêu anh Tường. Tình yêu đến rất chậm rãi, nhưng càng ngày chúng con càng thấy hợp nhau. Hy vọng mẹ sẽ vui khi thấy anh ấy có lòng đạo và luôn hăng say lo việc chung giáo xứ.

Bà Duyệt lim dim lắng nghe rồi thong thả gật gù, sau khi đã thở nhẹ ra :

- Mẹ không trách con. Lý do mẹ không hề nghĩ tới Tường chỉ là vì mẹ có cảm tưởng anh ấy chưa sẵn sàng để tính chuyện hôn nhân.

- Mẹ nói sao ?

Mẹ thấy Tường lúc nào cũng bận rộn sinh hoạt này nọ. Chắc nhiều người cũng đang nghĩ giống mẹ rằng anh ấy đâu đã muốn chịu bó chân bó tay trong khuôn khổ vợ con gia thất.

Dung ngó thẳng vào mẹ :

- Vâng, ai cũng thấy có vẻ như thế, nhưng nếu ở gần mới biết anh Tường đã rất là chững chạc. Thêm cái nghề giáo học càng làm anh ấy tỏ ra nhiều bản lãnh. Mà khi đã có tình yêu thì dần dà sẽ phải nghĩ tới đi xa hơn.

Bà Duyệt tằng hắng rồi nói giọng tha thiết :

- Mẹ hoàn toàn đồng ý với con về điểm đó. Thật ra mẹ cũng có mắt chứ đâu không ! Chỉ gặp Tường vài lần là mẹ đã có những nhận xét rồi...

Dung sốt sắng :

- Mẹ muốn nói đã coi tướng anh ấy ?

- Mẹ chẳng là thày bói, nhưng chắc con cũng phải công nhận với mẹ : đôi mắt cộng với dung mạo của Tường nói lên một tâm tư thẳng thắn, lại gói ghém nhiều ý chí và cương quyết nữa. Phải cái Tường tỏ dáng hay khí khái và không thích nhờ cậy ai, có thể dễ gặp nhiều chèn ép, khổ luỵ.

Dung cười :

- Và mẹ sợ con sẽ bị khổ lụy lây ?

- Không. Mẹ không có ý nói thế. Mẹ chỉ nêu lên chút nhận xét bên ngoài. Trong thực tế, nếu quả thật chúng con thương nhau, rồi cả hai cùng nương tựa vào nhau và bổ túc giúp nhau, mẹ cũng hy vọng sẽ tốt đẹp.

Trong đáy lòng, bà Quản Duyệt vẫn mơ hồ thấy tiếc về Dân, tiếc cho Dung bỏ lỡ một cơ hội được ngồi mát ăn bát vàng. Tuy nhiên, hình ảnh Tường cũng không đến nỗi tệ. Có lẽ Tường sẽ chả chịu an phận bó tay để rồi kéo theo Dung vào chỗ bế tắc, khốn cùng. Vả lại, Tường nhất định sẽ phải là người chồng biết thương vợ thương con.

Bà lại gật gù tiếp :

- Thế con và Tường đã gặp nhau và tính được những gì rồi ? 

Dung nhỏ nhẹ :

- Chúng con chưa dám tính gì cả, nhất là vì thời thế còn bấp bênh quá. Tuy nhiên con vẫn tin ai cũng có số, nếu hợp duyên thì rồi đâu cũng sẽ vào đó.

- Mẹ cũng muốn để tùy chúng con. Có điều phải làm sao kẻo bên nhà ông bà Thơ chờ đợi rồi trách móc mình.

Dung nói nhanh :

- Con tưởng lâu ngày họ không thấy mình đáp lại thì phải hiểu là thế nào chứ !

Rồi nàng như muốn mẹ thôi không nhắc tới chuyện liên lạc với gia đình Dân, bằng cách hỏi dồn dập :

- Mẹ à, ai chỉ cho mẹ biết nhiều những thứ... bí nhiệm thế ? Con còn nhớ dịp tết nguyên đán mẹ nói vanh vách về tuổi tác hợp với xung. Bây giờ mẹ lại luận về tướng mạo tựa hồ người chuyên nghiệp vậy đó !

Bà Duyệt như được đà : 

- Mẹ chưa nói hết đâu. Cái mục 'tướng hình' tuy đáng lưu tâm, nhưng chưa bằng hai thứ khác đâu.

Dung tròn mắt :

- Còn những thứ gì nữa hả mẹ ?

- Người ta bảo 'nhất thanh, nhị sắc, tam hình'. Để xét một người, trước hết phải coi tiếng nói, thứ đến là sắc diện, sau chót mới là hình thể.

Dung càng bỡ ngỡ :

- Thế mẹ có chê anh Tường về hai cái mục đầu kia không ?

Bà Duyệt cười :

- Về hai điều này thì con nên tự nhận định lấy. Mẹ tin và cũng ước mong rằng ít ra Tường được vào sổ Qúy tướng. Còn về chữ Phú để được giàu có và Thọ để được sống lâu thì mẹ không hề dám bàn tới.

 Nói xong, bà sực nhớ tới giờ Dung phải uống thuốc, nên đứng dậy toan ra lấy nước từ chiếc bình thủy ở bàn ngoài thì chợt nghe tiếng gõ cửa. Bà vô cùng bỡ ngớ khi nhận ra đó là chính Tường. Từ giường trong, Dung cũng hồi hộp ngồi nhỏm dậy.

Lúc được Tường cho biết chàng có chuyện rất khẩn cấp phải đến gặp Dung và mẹ nàng, bà quản Duyệt liền kéo ghế mời chàng vào ngồi kế bên giường, rồi vén mùng để cả ba cùng ngó thấy nhau. Tường nghiêm chỉnh lên tiếng :

- Thưa bác và em Dung, bởi phải đi dự mấy ngày hội thảo đúc kết niên khoá trên huyện nên hôm nay về cháu mới biết Dung đau. Cháu tới vừa để thăm bác và Dung, mà cũng vừa để trình bày về một việc vô cùng hệ trọng..

Dung lo lắng :

 - Có gì ghê gớm lắm không Tường ? Thấy như anh gầy hẳn đi thì phải.

Tường trấn an :

- Anh vẫn khỏe chứ không sao đâu Dung. Mà chính Dung mới đang cần cẩn  thận về sức khỏe. Nay đã bớt chưa ? Chuyện thuốc thang thế nào rồi ?

Bà Duyệt nói vội :

- Y tá tới chích kể cũng bớt khá. Cơn sốt hạ nhiều rồi. Hôm nay Dung nó đòi ngưng chích, tôi đang cự nự đây.

Dung xen vào :

- Con khỏi rồi mà ! Bằng chứng là con ngồi thật vững đây thôi.

Rồi nàng xoay qua Tường :

- Anh Tường nên nói chuyện quan trọng của anh đi.

Bà Duyệt cũng gật đầu nhìn Tường, nên chàng bắt đầu kể, giọng nghẹn ngào :

- Không ngờ hoàn cảnh của cháu đã tới chỗ hiểm nghèo tột độ rồi. Sáng nay, trước khi rời phòng giáo dục trên huyện, cháu được một một người bạn rất thân làm việc trên đó cho hay cháu đã có tên trong sổ đen của công an, chỉ đợi ngày bị bắt mà thôi. Thực ra, cháu đã có linh tính về chuyện này rồi. Mấy vị trong ban giám hiệu mới đây tự dưng đổi ra lạnh nhạt xa lạ hẳn mỗi khi gặp cháu.

Dung càng hồi hộp :

- Nhưng anh đâu có làm gì để họ bắt !

Tường chậm rãi :

- Anh Hợp sáng nay nói rõ họ kết tội anh là tay sai hàng đầu của các Linh Mục Hoa Lâm để đầu độc tinh thần lớp trẻ. Rồi ở trường học, họ bảo anh dạy nhiều điều phản tinh thần cách mạng. Chắc hồ sơ họ còn vu thêm chuyện giao du với các thành phần kháng chiến Phục quốc nữa, khó mà tránh được.

Bà Duyệt cũng lo lắng :

- Nhưng bây giờ anh định ra sao ?

Tường ngó Dung :

- Chắc cháu phải hành động ngay mới mong thoát bàn tay họ. Cha Huân thì họ còn nể giáo dân nên chỉ giam vài tháng cho về nhưng với một thanh niên thường như cháu, khi họ đã ghét rồi thì tất cả coi như là hết.

Dung bồn chồn ngồi không yên, cơ hồ quên cả chuyện ốm đau :

- Anh định thế nào ?

- Anh nghĩ ngay tới việc đi trốn tức khắc. Nếu bảo trên đời có ba mươi sáu kế thì nay anh chỉ còn kế đào tẩu. Dẫu Khổng Minh Gia Cát có sống dậy cũng khó tìm được mưu nào khác giúp anh. Về nhà, anh đã bàn kỹ với ông chú. Cả gia đình cùng đồng ý là không nên chần chừ. Ai cũng nói lúc này tránh voi chẳng xấu mặt.

Bà Duyệt buột miệng :

- Rõ là thời buổi 'cùng đồ tráng sĩ, mạt lộ anh hùng' !

Tường gượng cười rồi quay qua Dung kể tiếp :

- Rồi nữa, trước giờ lễ chiều, anh cũng đã gặp được cha Huân…

Bà Duyệt vội hỏi : 

- Sao bảo bây giờ ít ai được lên gặp cha phó lắm. Công an dường như đòi mỗi tuần cha phải báo cáo đã gặp những ai và đã nói những gì cơ mà !

Tường gật đầu :

- Vâng, bởi thế cháu phải gặp cha trong toà Giải tội. Xưng tội xong cháu mới vội kể chuyện cho cha nghe.

- Cha khuyên ra sao ?

- Cha đồng ý để cháu ra đi.

Dung hốt hoảng :

- Đi đâu ?

Tường nói nhỏ nhưng thật rõ từng tiếng :

- Đi tìm lối vượt biên tị nạn.

Dung như biến hẳn sắc mặt :

- Làm sao đi được. Mà...

Tường hiểu ý Dung. Nhất định là nàng đang vừa lo sợ cho bản thân Tường mà cũng không muốn xa chàng. Tường nói ngay : 

- Cha Huân bảo nên tức tốc đi Sài Gòn, tạm tá túc trên căn gác của nhà ông anh ruột cha ở miệt Phú Thọ, rồi cùng với ông ấy tìm đường ra đi, bởi cha Huân biết hoàn cảnh gia đình thật rõ. Khi đã sẵn sàng, sẽ báo tin về...

Dung càng bối rối :

- Anh tính chỉ đi một mình sao được !

Tường nhìn bà Duyệt :

- Anh muốn xin phép mẹ em để lúc đó mời em cùng đi với anh.

Dung run rẩy đưa tay qua nắm tay mẹ một lúc rồi mới thổn thức nói :

- Mẹ cho phép chúng con nhé. Con hy vọng chỉ một thời gian, tình thế đổi thay, chúng con sẽ quay về.

Bà Duyệt chả biết nói gì giữa cơn xúc động vì những chi tiết quá bất ngờ. Bà mân mê bàn tay Dung tưởng chừng sắp sửa phải xa cách trong giây lát, rồi thốt lên : 

- Trời ơi !

Tường cũng nghẹn ngào nhưng phải vội nói thêm :

- Việc ra đi ngoại quốc dĩ nhiên phải được chuẩn bị cẩn thận và kỹ lưỡng mới đám thực hiện. Cháu sẽ cố gắng tối đa. Có thể vài tháng nữa mới xong. Bây giờ là mấy chuyện trước mắt : ngay tối nay, thằng Hồng, con trai lớn của ông chú, sẽ dùng xe gắn máy chở cháu lên Đà Lạt để lấy vé xe Minh Trung đi thẳng Sài Gòn. Có thể phải trọ qua đêm tại nhà người quen trên ấp Du sinh.

Dung với hai mắt buồn vời vợi :

- Sao anh không đợi sáng mai thong thả lên xe Mai Tiến từ đây đi thuận tiện hơn ?

- Theo lời anh bạn Hợp, công an có thể kéo tới nhà bất cứ lúc nào, kể cả trong đêm nay. Vả lại nếu họ định bắt ngày mai, anh cũng sẽ bị chận lại ổ Mơ Long như trường hợp thày già Hào ngày trước. Thà tính kỹ quá đi một chút còn hơn. 

Dung vẫn ái ngại :

- Nhưng rồi anh sẽ cần bao nhiêu thứ để chi phí chuẩn bị. Làm sao...

 Tường xua hai tay :

- Dung yên trí, anh đã dành dụm được ít nhiều. Ông chú cũng cho gần hai cây nữa. Dịp này anh sẽ thử đóng vai người móc nối tìm đường, hy vọng không phải bỏ ra nhiều tiền mới đi được.

Dung chưa hết bồn chồn :

- Anh ra đi hôm nay chỉ một thân một mình, lỡ ra có chuyện gì bất trắc, em làm sao biết được để liên lạc ?

Tường nhìn Dung tha thiết :

- Anh cũng hiểu điều đó, nhưng lúc này chả còn kịp làm chi nữa, đành tin vào đường Chúa quan phòng thôi. Lúc đầu ông chú của anh ngỏ ý cho thằng Hồng hay thằng Đạt cùng đi, nhưng bàn tới bàn lui lại phải bỏ ý định đó. Anh cũng nghĩ tới Phương, nhưng được biết anh ấy đã qua sống bên vùng kinh tế mới Ka Đôn nên thấy vô phương. 

Lúc mẹ Dung ra ngoài lấy nước nóng cho nàng uống thuốc, Tường cầm tay Dung nói nhỏ :

- Anh hứa sẽ lo được việc này để đón em cùng đi. Bằng không, anh sẽ tìm cách sinh sống ở Sài Gòn. mình sẽ chẳng mất nhau.

Dung bồi hồi qua hàng nước mắt cố che giấu :

- Anh đi em sẽ lo lắng khổ sở từng ngày. Cố tìm cách nhắn tin cho em nhé. Lỡ anh có mệnh hệ nào, chắc em không sống nổi đâu.

Tường chỉ kịp gật đầu vì bà Duyệt vừa trở lại trao ly nước và mấy viên thuốc cho Dung. Nàng cố uống vội cho mẹ yên lòng rồi xoay người chồm tới phía cuối giường mở ngăn tủ lấy ra mấy món nữ trang. Hiểu ý, bà Duyệt nói ngay :

- Phải đấy, con nên trao cho anh Tường để thêm vào phần chi phí cần thiết. Hoàn cảnh quá gấp rút, chắc anh chả kịp vay mượn phụ ở đâu được. 

Tường đứng phắt dậy phân bua :

- Tạ ơn bác. Cảm ơn em. Phần chi phí tạm thời anh thấy đã đủ. Em cứ nên giữ lấy. Nếu có tin vui cho chuyến đi xa ổn thoả, em mang theo một đôi thứ cũng chẳng muộn gì.

Khi Tường rời nhà và cánh cửa đã khép chặt lại, Dung mới bật khóc rung rức. Ai ngờ được những biến chuyển lại diễn tiến như xi nê, tiểu thuyết ! Cuộc tình chưa kịp đâm bông kết trái thì đã gặp chuyện ly biệt chia xa ! Bỗng đâu những gần gũi hiếm hoi, những hẹn hò vội vã bây giờ trở thành những chuyện của dĩ vãng. Cơn mộng đầu đời chưa chết, nhưng hôm nay đã tình cờ biến tan vào khói sương mờ mịt mãi tận chân trời nào.

Sau dăm ba phút trao đổi thêm với mẹ về câu chuyện của Tường, nàng lấy cớ mệt xin được nằm nghỉ một mình, mặc dầu bà cụ còn muốn ở gần chia sẻ ủi an. Tựa đầu lên hai ba chiếc gối chồng lên nhau, Dung tưởng chừng như vẫn còn nghe tiếng chân của Tường bước trên lối đi đầy sỏi trước nhà. Tâm tư nàng bắt đầu vẽ ra trăm ngàn ý nghĩ mông lung. Định mệnh khắt khe nào đã đẩy chàng xa lìa mảnh đất Hoa Lâm đầy thơ mộng này ? Giờ đây từng kỷ niệm của hai người đã ăn sâu nơi tâm khảm nàng. Tất cả sẽ nối tiếp nhau khơi dậy trong hồn Dung những xót xa nuối tiếc khôn lường. Nàng không thề tưởng tượng nổi rồi mai đây xứ đạo hiền hoà này sẽ vắng hẳn bóng Tường. Bao nhiêu dấu vết của chàng vẫn hằn in đó đây. Sân trường. Khuôn viên nhà thờ. Con đường nhựa chạy dọc qua thôn ấp. Thiếu chàng, cỏ cây sẽ như khô cằn trơ trụi. Còn mình Dung ở lại, không gian nào cũng hoá ra thừa thãi, trơ trẽn. Phải rồi, cuộc chơi đã hết. Mùa vui đã tàn. Người đã đi, như cánh chim lìa rừng, nào ai biết bao giờ mới tái ngộ ! Chả khác chi con tàu nay đã nhổ neo, ai hay ngày nào mới quay lại bến ! Lời thơ Hàn mạc Tử như vang lên trong đầu nàng : Người đi một nửa hồn tôi mất; một nửa hồn kia bỗng dại khờ !

Nàng muốn lên tiếng hỏi người ta quảng cáo hoà bình với giải phóng làm gì, một khi xô đẩy nhau tới chỗ tách biệt phân ly. Kể từ ngày mai, ruộng đồng ngoài kia sẽ mất đi màu tươi xanh của lạc quan và hy vọng. Núi đồi vây bọc Hoa Lâm chắc sẽ chỉ còn là chồng chất của những phiến đá rêu phong buồn thảm.

 Trong một phút mơ tỉnh chập chờn, Dung mường tượng thấy những chuỗi ngày trước mắt sẽ dài như vô tận. Thời gian rồi sẽ nặng nề trôi như giữa một vũ trụ không hồn. Nàng sợ nhất là cuộc sống của chính mình sẽ trở thành nhàm chán vô vị. Cơn đau lúc ấy sẽ chẳng còn là chuyện cảm sốt với thương hàn, nhưng hoá thành chứng bệnh trầm kha của cô đơn ở mỗi buổi tối, ở từng ban mai. Càng sợ hơn nữa là cảnh tâm tư mỏi mòn vì chờ ngóng tin chàng. Dẫu cho vẫn còn đôi chút hy vọng le lói, nhưng tất cả như đang vuột khỏi tầm tay.

Dung vừa muốn tìm được giấc ngủ cho vơi dịu đi những ý nghĩ đang tung hoành đe doạ trong đầu, nhưng lại vừa muốn thức cho thật khuya để dõi theo bước chân người yêu đang rời xa tiến về phương trời vô định, để mơ mộng cùng được sánh vai với chàng mà san sẻ, mà chia sớt mới niềm vui nỗi buồn, ở mỗi phút giây, qua từng chi tiết. Tội nghiệp Tường quá ! Cơ hồ chàng chưa một lần để ý lo lắng cho chính bản thân mình. Bao nhiêu hăng say hứng khởi của tuổi trẻ chàng như muốn dành cho người khác được vui. Về Hoa Lâm chưa được bao lâu đã gặp hoàn cảnh đổi thay chua xót, và rồi bây giờ lại phải đớn đau xa lìa. Ngày bắt đầu được nhiều người biết và mộ mến thì lại là ngày chàng khởi sự chịu những chông gai thách đố lớn lao. Vốn liếng tinh thần được gói ghém cả nơi lý tưởng giáo dục thì bỗng đâu đoàn người duy vật kéo đến đổi thay mọi thứ trật tự cuộc sống, để rồi bạo lực đã tràn lấp, đã giập vùi những lớp người đầy thiện chí và nhiệt huyết như Tường. Biết tới ngày nào cơn hồng thủy này mới bị đẩy lui, cho chàng hết phải lận đận xui xẻo mà thấy lại được nguồn vui tươi sáng đã ấp ủ từ đầu !

Trong chập chùng thương nhớ, Dung như oán hận khi nghĩ tới cơn bão đập sóng xô đã thực sự đẩy chàng vào chỗ cùng đường. Anh hùng lúc này đành phải lụy thời thế, phải tìm học lối sống của loài lươn để 'lúc gấp thì ngắn khi vươn thì dài'. Dẫu kiên gan mấy, Tường cũng đã phải tạm chịu bó tay vì đã hiểu rõ câu 'mãnh hổ nan địch quần hồ'. Nhất định là Tường đã phải cay đắng lắm mới chọn giải pháp bất đắc dĩ này. Quả thật, ở hoàn cảnh nan bách hôm nay, chàng đã tìm trực diện cái hiểm nghèo, kể cả cái chết, của cuộc hành trình thiên nan vạn nan đây, chỉ là vì không muốn khuất phục những bàn tay thô bạo của bọn Cộng sản man rợ.

Nghĩ tới đây, lòng Dung thấy như sôi lên sùng sục. Nỗi căm giận như bừng bừng nơi từng tế bào thớ thịt. Nàng bất giác nắm chặt hai bàn tay, tâm tư ứ đầy những cương quyết với khẳng định. Được ! Nàng và Tường sẽ ra đi, nhưng ước hẹn một ngày nào đó sẽ trở về. Đất trời dứt khoát rồi sẽ biến thay. Bất quá mình sẽ đóng vai đoàn người Sion phải lìa quê để cất bước lưu đầy bên miền Babylon xa lạ, chờ dịp hồi hương dựng lại thành thánh Jerusalem huy hoàng. Hoa Lâm sẽ mãi còn đó, oai hùng và bền vững giữa cơn bão đời tàn nhẫn. Nàng liên tưởng tới ngày trở lại thật tưng bừng ý nghĩa. Và Dung thầm nghĩ, để được như thế, với mình hai chữ nhẫn nhục vẫn phải được nêu cao hàng đầu. Chán nản tuyệt vọng nào được lợi ích chi ! Chẳng nên hận người hay thù đời làm gì cho thêm sầu thảm. Biết đâu những biến cố hôm nay đang là những thách đố để tôi luyện ý chí và tâm tư mình !

Trong trạng thái ấy, Dung ráng ru mình vào giấc ngủ. Giữa cơn mơ màng, nàng thấy bóng Tường như một chiến sĩ thập tự quân thới trung cổ đang đeo gươm chèo thuyền vượt sóng ra khơi. Từ phía xa, lố nhố từng lớp giặc biển hình thù quái dị bao vây chặn lối. Tường hiên ngang múa gươm tứ phía, nhất quyết xông vào giữa bọn cướp để tìm đường tiến tới. Hỏi chàng định đi đâu thì Tường cũng chỉ thinh lặng. Mãi tới lúc dẹp được mọi trở ngại để một mình một thuyền giữa biển khơi, với quần áo tả tơi và mồ hôi toát ra như tắm, chàng mới nhẹ đưa tay vẫy chào. 

Một tiếng sóng vỗ lớn khiến Dung giật mình tỉnh dậy thì đã quá nửa đêm. Ngoài trời gió vì vèo thổi như gợi thêm nỗi lạc loài hoang vãng trong hồn nàng khiến hình ảnh Tường lại ẩn hiện nhảy múa trong đầu. Chắc giờ đây chàng đang ngủ trọ đâu đó trên Đà Lạt, vì thới buổi này đâu còn những chuyến xe đêm về miền xuôi ! Mà nhất định chàng cũng đang phải vật vã với giấc ngủ khổ sở lắm : ra đi ai mà chẳng thấy như chết một tí trong lòng ! Rồi nữa, nếu tìm trọ tại ấp Du Sinh, biết đâu Tường cũng đang giống như nàng mà xốn xang khơi lại trong tim những phút giây thần tiên nhất của một lần kỷ niệm bên nhau gần bờ suối Cam Ly. Cuộc đời dẫu sẽ là trống rỗng vô vị và giòng nước thời gian có heo hút viển vông cách mấy đi nữa, mảnh tình yêu hai đứa đã trao cho nhau chắc chắn sẽ mãi mãi còn đó. Tâm tư cả hai sẽ không ngừng dội vang ngàn vạn thanh âm, tuy thầm kín nhưng mãi là kỳ diệu, tuyệt vời.

Nhớ quá. Thương quá. Dung gọi thầm tên người yêu. Nàng hy vọng chàng cũng đang thao thức trong thương nhớ như mình. Nhưng rồi, cùng một lúc, Dung lại muốn cho Tường được ngủ một giấc thật say, không vấn vương tư lự gì hết. Chàng đã mệt mỏi quá rồi. Phải để cho chàng được ít khoảnh khác thanh thản bình yên. Biết bao nhiêu biến cố thử thách còn đang như giàn hàng ra chờ đợi trước mắt. Mong sao con đường hầm chàng đang dấn thân vào sẽ còn le lói những tia hy vọng ở phía xa. Thật khổ cho Tường, khi gặp cảnh thương tâm như lúc này thì lại chỉ có một mình một bóng. Nỗi khổ đó giờ đây đang dồn vào tim vào óc của chính nàng, cũng một mình nằm đây để xót xa, héo hắt. Niềm đau như dâng lên vời vợi khi Dung biết rõ mình hoàn toàn chịu bó tay chẳng làm được điều chi giúp đỡ cho Tường. Thôi đành trao phó cho định mệnh. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân. Cầu mong Chúa Mẹ hộ phù cho chàng được an bình may mắn. Với Dung, dẫu có phải đóng vai nàng Đỗ Thị để chờ ngày người yêu là Bá Lý Hề của nước Ngu bên Tàu xưa, lúc đời xế bóng mới thành công trở về, thì nàng cũng cam lòng mà kiên tâm ngóng đợi.

Dung mấp máy làn môi như để tự an ủi : nhất định mình sẽ can đảm đủ để đối phó với chuyện thử thách này, và cũng sẽ biết phấn chấn cho chàng cũng được an tâm mà hăng hái định liệu mọi việc. Rồi nàng lại thì thào trong hơi thở : ngủ đi anh; đừng bận tâm nhiều tới em. Tường hãy hiểu là Dung của anh sẽ gắng sức được để xứng đáng với cái chí khí sắt son của anh. Nếu chỉ vì quá sợ mất nhau mà để mất luôn cả sự sáng suốt trong hồn, thì rồi có thể mình sẽ mất cả hai một lượt, phải không anh ? Em muốn nhắc lại một lần nữa, em sẽ không còn mềm yếu ủ rũ như ngày nào. Em đang hiểu anh và sẽ hỗ trợ anh cho tới tàn hơi thở đời em.

Ngủ đi anh. Và nàng cũng đang muốn nhủ mình ngủ đi. Ngủ đi Dung. Để rồi sẽ ngủ theo mình tất cả những bồn chồn lắng lo của tháng ngày đang thách đố. Biết đâu niềm vui rạng ngời của một thời nào đó sẽ khơi mào từ một quá khứ hôm nay đầy chán chường tuyệt vọng. Không có khó khăn thử thách, phải chăng niềm hạnh phúc ta kiếm tìm sẽ chỉ là giả tạo trơ trẽn ?

Đã đành từ lâu mình chỉ ôm ấp một giấc mơ hiền lành nhỏ bé : mong được có Tường để cùng nhau vui sống bên bóng giáo đường Hoa Lâm đầm ầm, cho tương lai sẽ rực rỡ như ánh dương trải dài mỗi sớm mai hay lúc chiều tà trên những bờ ruộng ngoài cánh đồng kia, nhưng định mệnh nào luôn chiều lòng người ! Mình đã gửi hết niềm vui vào khoảnh đất thô sơ miền cao nguyên này, từ mỗi lùm cây, mỗi tảng đá, mỗi con đường đi lại đón đưa nhau. Rồi thân quyến, rồi bè bạn, rồi đoàn hội. Tất cả đã được gởi ghém thu gọn vào đáy tâm tư lòng trí. Tiếc thay, đời mãi là cuộc hành trình bất tận, và qua giòng lịch sử, có bao giờ người ta hết nói tới cũng như hết chứng kiến cảnh tan hợp đâu ! Hôm nay, đất bằng đã lại nổi sóng. Để không bị làn nước phũ phàng vùi giập, mình phải trở nên những chiếc thuyền biết bồng bềnh và chịu nổi trôi. Chia xa với ly biệt thuở nào chả chua xót đắng cay, nhưng cuộc nhân sinh cứ mãi là thế. Kể từ sáng mai, Tường khởi sự hoá thành một cụm mây phiêu bạt. Chàng sẽ chờ mình ở một góc trời tít tắp nào đó. Mà  mình thì cũng chỉ tìm được một lối đi duy nhất lúc này là sẵn sàng để theo chàng trôi giạt tới cái điểm hẹn vô định đợi mong. Chấp nhận phân cách để rồi hội ngộ trùng phùng. Phải dám cùng chàng đi tìm sống trong bóng dáng cái chết. Cũng có nghĩa là phải rời dĩ vãng để còn mong được thấy hút tương lai. Cần chấm dứt để có được một bắt đầu, vì đời còn được định nghĩa là một vòng tròn mà tận cùng sẽ trở nên một khởi điểm mới.

Dung mơ màng nghĩ tới cái khởi điểm tươi hồng ấy và tin rằng nó sẽ mãi đậm đà ý nghĩa, bởi đã được hun đúc qua bao gai chông và sỏi đá. Nó cũng phải nồng nàn tựa hương hoa, vì được ướp rất kỹ bằng một mối tình bền vững kiên trì. Hành trang của nàng và Tường lúc này sẽ thật là nhẹ nhàng giản dị. Bước chân ra đi cũng sẽ bớt nặng nề vương vấn. Mẹ nàng chắc rồi sẽ hiểu biết để cảm thông. Chốn thiên đàng Hoa Lâm đang bị lũ vô thần cố tạo thành địa ngục, bây giờ mình tạm biệt để mong có ngày trở về mà tiếp tay vun xới cho Rừng Hoa cũ được lấy lại màu tươi. 


MƯỜI


Tường ngồi trên tảng đá nhìn ra vùng biển mênh mông xanh thẫm. Bóng tà dương đang chạy dài trên mặt nước nhấp nhô theo làn gió nhẹ. Từng bày chim hải âu bay lên xuống đùa giỡn với những đợt sóng đuổi nhau xô vào bờ cát bên dưới. Trên cao, những cụm mây trắng pha sắc hồng trôi ùn ùn về hướng đông bắc, khiến chàng chạnh nhớ về mảnh đất quê hương mà nghe như muối đổ trong lòng.

Đã ba ngày đặt chân an toàn lên mảnh đất Indonesia này rồi. Thủ tập nhập  trại tị nạn cũng đã hoàn tất. Tuy nhiên khúc phim vượt biển di tản như lúc nào cũng được quay lại liên tục trong tâm trí Tường. Trọn một tuần lễ lênh đênh trên biển cả, với những giây phút mọi người tưởng chừng đã tuyệt vọng vì sóng to gió lớn, mà con tàu thì quá nhỏ bé mong manh. Lúc nhìn thấy mảnh đất liền với hàng dừa lố nhố từ xa, gần ba mươi sinh mạng tưởng tượng thấy mình chết đi sống lại để rồi thầm tạ ơn đất trời.

Xa lìa đất mẹ Việt Nam và xứ đạo Hoa Lâm thân yêu, Tường chỉ còn lại niềm an ủi duy nhất là có Dung ở bên cạnh, cộng với nỗi ước mơ sẽ thấy ngày hồi hương với quê nhà đổi mới. Ngồi tưởng nhớ lại cuộc chuẩn bị cho chuyến hải hành đầy căm go nhưng cũng nhiều ý nghĩa này, Tường vẫn bàng hoàng nghĩ mình còn đang sống trong nửa thực nửa mơ. Ba tháng thôi. Kể là quá đặc biệt và may mắn cho chàng cũng như Dung. Khả năng tài chánh thật hạn hẹp, nhưng cơ hồ mọi việc đã đẹp xuôi như có bàn tay thần thiêng từ trên cao hộ phù tiếp sức. Chàng thấy hết thương cho Khương đang cực nhọc ở vùng kinh tế mới, lại tội nghiệp cho bọn thằng Sinh thằng Vũ cùng bị nghi ngờ liên lạc với Phục quốc, chắc giờ đây đã bị bắt hết rồi. Cũng thật tiếc cho gia đình ông anh của cha Huân, tưởng chừng đã sẵn sàng đầy đủ mà phút chót lại kẹt mấy chuyện riêng không thể với chàng đồng hành. Với cái mác nguỵ quân tháng ngày đeo đẳng, dẫu chỉ với cấp bậc trung sĩ chánh, nhưng lại thuộc ngành biệt kích 'ác ôn', trong chế độ cũ, chả biết rồi ông ấy sẽ xoay sở thế nào ! Cầu mong ông sẽ may mắn để thua keo này lại bày được keo khác.

Mọi người trên ghe đều hiểu Dung và chàng là hai người đã hứa hôn và đợi ngày làm lễ cưới. Lúc mới đặt chân lên đảo để được đưa vào trại tạm cư Galang I này, người ta khuyên cả hai nên chuẩn bị thành hôn trước dịp được phái đoàn ngoại quốc phỏng vấn. Lý do là việc này sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn để được cùng đi chung tới một đệ tam quốc gia. Cả chàng lẫn Dung đều ừ hữ để đó. Đầu óc ai nấy còn vọng vang tiếng sóng đại dương và đầy ắp nỗi niềm nhớ thương về  miền đất đã bỏ lại sau lưng. Nhớ thương tới độ có lúc chàng tự chất vấn phải chăng mình đã quá vội vàng và nhát đảm để quyết định ra đi như thế này, khiến cho Dung phải xót xa chia lìa người mẹ thân yêu, còn chính bản thân mình thì mang danh kẻ đào ngũ, bỏ hai nấm mộ song thân tiêu điều không ai thăm nom chăm sóc.. Biết ngày nào mới hát lại được khúc ca hồi hương ! Đã đành mình không hề muốn theo lối sống ngông nghênh tựa anh chàng Don Quixote trong tập truyện của nhà văn Cervantes bên Tây Ban Nha thuở nào, nhưng tại sao mình chẳng kiên tâm cầm cự thêm một ít ngày, để nhún nhường chờ thời như kiểu Hàn Tín, biết đâu sẽ có cơ may dun dũi mà được diễm phúc ở lại mảnh đất quê hương. Nghĩ lui rồi nghĩ tới, đầu óc Tường như sôi sục với những vật lộn, giằng co.

Đêm đang xuống chầm chậm. Tiếng côn trùng từ đâu rên rỉ vang rền. Tường lim dim đôi mắt cố hướng về phía chân trời trước mặt. Hoa Lâm lúc này chắc cũng sắp chìm vào ánh đêm, nhưng dân chúng thì đau xót với một màn đêm đang  triền miên bao phủ tâm tư họ. Vật chất đã cơ cực mà tinh thần lại bội phần thống khổ. Tường đau buồn nhất khi nghĩ đến từng lớp trẻ đang bị dồn ép theo một đường lối giáo dục lầm lạc một chiều. Bác và Đảng sẽ cướp đi mất cái tình người cố hữu thật cao quý của dân chúng. Rồi mai đây tương lai của bọn trẻ sẽ trở thành giống như lời nhà thơ chàng rất thích là Nguyễn chí Thiện : Mặt mũi vêu vao, tính tình hung tợn - Có thể giết người vì củ sắn miếng khoai ! Bác Hồ đã giả hình khuyên nhủ bọn học trò với 'Năm điều Bác dạy', nhưng cốt tủy của giáo huấn nhà trường lại hoàn toàn trái ngược. Bọn trẻ chỉ biết đọc những điều đó như lũ vẹt.

Trong xót xa, Tường hồi tưởng lại một năm chàng dạy học với hệ thống giáo dục mới. Từ tiềm thức, bao nhiêu hình ảnh bỗng ùn ùn sống dậy. Quấn quít trong đầu chàng là một mớ ký ức về các từ ngữ mới : ban giám hiệu, giáo án, kế hoạch nhỏ, sự cố kỹ thuật, giao ban, lưu ban....Rồi nữa, những giá trị mới như Hồng hơn chuyên, Học tập kinh qua lao động, Mười năm trồng cây và trăm năm  trồng người. Tất cả chỉ vỏn vẹn là những công thức, những tuyên truyền bề ngoài, nhưng nội tại thì rỗng tuếch. Ngay từ tuần lễ tu nghiệp đầu tiênTường đã linh cảm thấy một viễn ảnh sụp đổ tinh thần to lớn cho cả nước. Chàng đinh ninh rằng mình sẽ buộc lòng phải đi ngược chiều để rồi khó mà thọ lâu nổi với chế độ mới, trước sau cũng sẽ bị sa thải hoặc đưa đi cải tạo. Có kiên nhẫn để 'nín thở qua cầu' cách nào đi nữa cũng chả mấy mà gặp khúc đường cùng.

Thật khổ cho đoàn trẻ đầu còn xanh đã sớm phải đầy đọa tấm thân, cụ thể nhất là ở những chiến dịch thi đua thủy lợi. Đảng hợm hĩnh đòi 'thay trời làm mưa' mà rồi buộc dân chúng sống kham khổ cực nhọc như lũ nô lệ và tù nhân. Để ráng sức đạt cho được chỉ tiêu nhà nước đưa ra, biết bao người đã chỉ còn lại 'bộ xương cách trí' , dần đi tới chỗ thân tàn ma dại. Tệ hại hơn nữa là hàng ngày bọn trẻ nhìn thấy nhan nhản những gương xấu về dối trá, lừa bịp khắp nơi. Nạn tham nhũng bất công lại hoành hành tứ phía. Thế là lớp người đang được Bác với Đảng  trồng lên sẽ thành niềm tủi hổ đớn đau cho giòng giống Việt Nam ở những tháng ngày sắp tới.

Tột cùng của nỗi kinh hoàng là phải nói tới hai chữ Tự Do đang bị phá sản ở quê nhà. Tệ hại đến độ người ta phải kết luận rằng giả như các trụ đèn bên đường có thể di chuyển thì chúng cũng sẽ tìm cách vượt biên ra nước ngoài ! Làm sao chấp nhận nổi mỗi sinh hoạt, mỗi tư tưởng đều phải rợp khuôn theo mẫu mực quái đản và độc đoán do nhà nước đưa ra !

Có thể chính quyền đang hiểu Tự Do nghĩa là công an được mặc sức chèn ép dân lành, miễn sao cho lệnh trên được mọi người tùng phục. Điều này đã đưa tới cái hệ lụy thê thảm sâu đậm nhất nơi tâm tư dân chúng là họ mất cả việc Tự Do Tôn Giáo, cái yếu tố thiêng liêng hàng đầu gắn chặt với đời sống của họ. Tường đã trực tiếp và nhãn tiền chứng kiến những biến cố của xứ đạo Hoa Lâm. Và rồi cuộc ly tán xót xa hôm nay đã thực sự là phần nào kết quả do các liên hệ dính líu của chàng vào những sinh hoạt tôn giáo và văn hoá nơi mảnh đất yêu thương miền cao nguyên đó, mảnh đất giờ đây đã đi vào huyền sử thần thoại nơi trí lòng chàng.

Tường lặng người đi theo cơn gió lạnh tỏa lan khắp vùng bờ biển. Từ phía làng mạc xa xôi của đám dân địa phương đã xuất hiện những đốm lửa chập chờ ẩn hiện như những bóng ma trơi. Mơ hồ đâu đó tiếng hú loãng tan dần vào đám rừng chìm lặng dưới làn sương lam mờ đục. Chàng mường tượng như tai đang nghe những điệu kèn não nuột được thổi lên do một gã lưu đầy nào đó đang tha thiết nhớ quê. Mỗi một âm thanh xem chừng như cào như cấu tâm hồn chàng.

Thế là một cảm giác bi quan ngao ngán đột nhiên nổi dậy vẽ nên một chấm hỏi to tướng trong đầu chàng. Phải chăng giòng giống dân Việt đã chịu mang cái án phân ly ngay từ đầu với thủy tổ : Lạc long Quân và Âu Cơ, tuy đã có một trăm con với nhau, nhưng bởi một bên là giòng Rồng thuộc nước, một bên lại là giòng Tiên thuộc hỏa, thành ra không thể hoà hợp với nhau mà phải chia xa. Để rồi đoàn con dân Việt hôm nay, đã hết mang đặc tính thần như thủy tổ, mà vẫn phải thấy cảnh phân cách chia lìa, sức đâu mà chịu thấu những tủi hổ đớn đau ! 

Bỗng Tường giật mình khi thấy Dung lên tiếng từ phía sau :

- Trời tối quá rồi mà sao anh còn ra ngồi đây một mình thế này ? Em tìm anh từ nãy tới giờ đến sốt cả ruột lên !

Tường nhỏm dậy rồi ôn tồn nói :

- Xin lỗi em. Vừa lúc lên nhà thờ trao mấy bài nhạc ghi vội cho cha Dominici về, anh thấy cảnh biển đẹp quá nên ngồi nán lại đây ít phút. Tưởng em còn bận chờ lãnh phần thực phẩm cho ngày mai trên ban dịch vụ Cao ủy....

Dung tới sát nhìn Tường, hỏi nhỏ :

- Ngồi ngắm cảnh mà sao vẻ mặt anh coi bộ rầu rĩ khác lạ thế kia ?

Tường nhún vai : 

- Tại ngó biển rồi ngó theo về Việt Nam. Bất ngờ anh muốn khóc. Giá anh là…đàn bà thì mắt lúc này chắc đã sưng húp rồi.

Dung vòng hai tay trước ngực :

- Hôm nay anh để lộ nét đa sầu đa cảm quá rồi. Sao cứ phải nghĩ ngợi lắm cho khổ thân ! Em thì không thích ngoái cổ lại hoài như anh, không phải vì sợ sẽ hoá thành tượng muối như bà Loth xưa, nhưng thấy làm thế chả ích lợi gì lúc này.

Tường tròn mắt :

- Bây giờ em chì gớm !

Dung làm ra vẻ can đảm :

- Anh thấy em đây này : có phút nào ngưng thương nhớ mẹ em đâu, thế mà em vẫn can đảm bình tĩnh được. Anh biết không, hơn một tuần trước đây, lúc em được anh báo tin và rồi phải lên tiếng từ biệt gia đình, mẹ em khóc như mưa; nhưng rồi em vẫn cương quyết để dứt khoát ra đi.

Ngưng một lát, rồi nàng nhìn ra phía biển nói nhỏ :

- Đố anh biết em nhờ bí quyết nào để giữ lòng được thanh thản ?

Tường lắc đầu lia lịa khiến Dung lại thong thả tiếp :

- Vào cái đêm anh thình lình bỏ Hoa Lâm ra đi chắc anh còn nhớ, em đã chiến đấu trong tâm trí tưởng chừng tuyệt vọng; nhưng rồi chắc Chúa đã soi lòng cho em tìm ra được một niềm cậy trông để tin tưởng mà vui sống. Đó là nỗi mong đợi sẽ có ngày trở lại để tái tạo mảnh đất quê nhà thân yêu. Có thể ví, ít ra là như Giu Se trong Cựu ước chịu cảnh lưu đầy qua Ai Cập để rồi làm lợi cho dân nước giòng giống. Em đã nghĩ kỹ rồi, đây là lúc mình phải từ bỏ tất cả để có thể lấy lại được trọn vẹn những cái đã mất.

Tường lại tròn mắt :

- Anh cũng đã cố nghĩ như em, nhưng mấy hôm nay hình ảnh quê hương làm anh không ngừng xốn xang cả hồn trí. Thật khó ngăn cơn xúc cảm mỗi dân nhớ tới Khương, tới cha Định, cha Huân. Thú thật, anh thấy tâm tư cứ tả tơi, rối bời.

Cả hai im lặng một lát, rồi Tường kéo Dung ngồi xuống :

- Thế em có muốn mang theo một vài kỷ niệm nào đáng kể của quê mình không ?

Dung cười :

- Ngàn muôn kỷ niệm kể sao cho hết, mà kỷ niệm nào mà chả đáng nhớ !

- Kỷ niệm thật đặc biệt cơ mà !

- OK. Ngoài kỷ niệm về mẹ em và những lần mình gặp nhau vụng trộm ban đầu, em còn mang theo được một kỷ niệm rất qúy giá khác.

Tường tò mò trong bỡ ngỡ :

- Kỷ niệm riêng tư ?

Dung vẫn tủm tỉm :

- Vừa riêng vừa chung. Thôi nói ngay kẻo anh cứ hỏi mãi mất công. Đó là kỷ niệm về những chuyến tập đi buôn trăm cay ngàn đắng.

Tường càng sửng sốt :

- Đi buôn thế nào mà phải ngàn đắng với trăm cay ! Quá lắm thì thua lỗ là cùng chứ…

Dung nhìn ra làn nước :

- Đắng cay là vì cười ra nước mắt. Nó cho em có dịp học những mánh mung để giấu cất hàng, để đút lót mấy trạm công an thuế vụ, để cung phụng mấy bác tài và mấy chú lơ xe, để năn nỉ ở những lúc bị bắt phạt, để tập 'biết điều', tập 'móc ngoặc' với những tổ trưởng và phường khóm, vân vân và vân vân.

Tường bồi hồi nắm tay Dung :

- Tất cả đã qua rồi. Mình đã để cái Xã hội Chủ nghĩa ấy ở lại mãi phương trời xa. Em định khư khư ôm lấy những kỷ niệm vàng ngọc ấy cho đến bao giờ ?

Dung nhìn Tường :

- Bao giờ quên thì thôi. Có thể tới lúc chết. 

Hai người lại im lặng. Mặt trăng đã ló dạng phía trời đông. Niềm vui hoà lẫn theo nỗi buồn để cùng thấm nhập vào hai con tim đang chung một nhịp tha thiết và nồng nàn nhất.  Dung nép vào bên Tường như để tránh cơn gió lạnh :

- Anh nghĩ ngày nào mình sẽ có thể về lại Hoa Lâm ?

Tường long lanh đôi mắt :

- Anh hy vọng sẽ chẳng lâu. Nay mai, mình sẽ cùng sát cánh với các cộng đồng tị nạn Việt Nam khắp nơi để đấu tranh mong giải phóng lại quê hương.

Dung âu yếm :

- Thế còn chuyện của hai đứa mình ?

Tường cảm động :

- Em muốn định thế nào ?

Dung xiết chặt hai bàn tay Tường, thì thào trong hơi thở :

- Anh biết rồi !

Tường âu yếm nhìn hồi lâu vào mắt Dung. Chàng vu vơ tin tưởng rằng mình đã không giống như Jonah xưa cố tìm đường lẩn trốn sứ mạng để rồi bị ném xuống lòng biển và chui vào bụng cá. Có chăng cũng chỉ tương tự hoàn cảnh của chàng An Tiêm bị vua cha đày ra đảo Hải Nam, chả mấy sẽ được minh oan mà trở về trong danh dự.

Thủy triều dâng lên cao dần. Tiếng sóng vỗ vào bờ mỗi lúc như mỗi mạnh hơn. Hai người như cùng thấy ánh mắt của nhau bỗng rực sáng, cơ hồ rọi chiếu vào sâu thẳm tâm hồn mình. Họ cùng hiểu lúc này phải ra đi để còn được có nhau và để hy vọng được thấy một ngày về thật đúng ý nghĩa, thấy được ngày mà những cánh hoa tình thương sẽ lại rộ nở trên mọi khe suối triền đồi; và nhất là thấy được ngày lại có cảnh bày trẻ nắm tay ca hát dưới bóng ngọn tháp giáo đường, cũng như nghe lại được những tiếng chuông chiều ngân vang mời gọi của những tháng năm qua.

Trăng đã lên cao. Sương đêm đã xuống lạnh ướt bờ vai của đôi nam nữ đang chụm hai mái đầu bên nhau trong xúc động thổn thức. Tuy nhiên, tâm hồn họ đang thực sự được sưởi ấm. Tương lai còn như vẫn xa xôi, mịt mờ, nhưng niềm tin mãnh liệt đã là động lực cho bước chân phấn khởi của cả hai tiến về hướng đi trước mặt, với bóng dáng chập chờn của thôn xóm Hoa Lâm luôn ẩn hiện cuối chân trời.

Cali đầu hạ 1990

Tưởng niệm 15 năm phân cách

Tác giả Đường Phượng Bay

No comments:

Post a Comment