Monday, November 30, 2015

Mustafa Kemal (1881-1938)

Mustafa Kemal, vị sáng lập đệ I Cộng Hòa Thổ-Nhĩ-Kỳ (Turkey) là một nhà đại cách mạng có một không hai trong thế giới Muslim đầu thế kỷ XX; qua đó ông không chỉ đánh bại thực dân Anh, Pháp, Ý và Hy-Lạp ở cựu đế quốc Ottoman giành độc lập và khai sinh chế độ Cộng Hòa Thổ, ông còn giải phóng phụ nữ Thổ khỏi chế độ "sultanate" (tăng lữ) và luật của Islam mà người Thổ gọi là "seriat" (Shari'ah) do các "imams-hatip" (giáo sĩ) của "caliphate" (đế quốc Hồi giáo) Ottoman áp đặt để khống chế chính trị núp danh nghĩa tôn giáo. Không như họ Hồ ở Bắc Việt mạo xưng là "bác" của dân miền bắc và của VC ở miền nam, Tổng Thống Mustafa Kemal đã được quốc hội Thổ tôn vinh danh hiệu "Ataturk" (cha già dân tộc), một danh hiệu chỉ dành cho một mình ông trong lịch sử nước Thổ.
 
Ngày sinh và tên của ông đã từng là chi tiết gây tranh cãi. Một phần vì cha ông mất sớm; mẹ tái giá khiến ông phải tự lập sớm; một phần do đế quốc Ottoman dùng âm lịch Hijra của Islam và lịch Rumi (từ 1839) thay vì dương lịch Gregorian. Hơn nữa, tập tục của dân Thổ không có tên họ; chỉ dùng tên gọi thuở sơ sinh và tên hiệu đặt theo từng thời kỳ sinh hoạt. Do đó, ông chỉ có tên gọi "Mustafa" (=kẻ được chọn) mà cha mẹ đặt. Tên gọi bổ túc "Kemal" (=hoàn hảo) hay "Selânikli Kemal" (Kemal từ Salonica) do thầy giáo dạy toán, Đại úy Uskuplu Mustafa Sabri đặt khi ông tòng học ở trường quân sự Salonica. Tên "họ" Ataturk (=cha của dân Thổ) của ông đã được quốc hội Thổ (Grand National Assembly of Turkey=GNAT) chính thức trao tặng hôm 24/11/1934. Ông cũng có các tên gọi bổ túc như "Bey", "Pasha", "Fazil" và "Gazi" được quân đội hoặc quốc hội đặt theo cấp bậc và chức vụ từng thời kỳ mà ông trải qua.
 
Mustafa Kemal Ataturk sinh ngày 19/5/1881, con của ông Ali Riza Efendi một viên chức thuế vụ cấp thấp ở Salinica và bà Zubeyde Hanim. Sinh trong thời kỳ mạt Ottoman nên cha mẹ đã chọn cho ông học trường quân sự sớm để bảo đảm một sự nghiệp trong một tương lai bất trắc. Đế quốc Ottoman cuối thế kỷ XIX có dân số gần 30 triệu; rất lạc hậu và bị xâu xé bởi các cường quốc Anh, Pháp, Ý, Đức, Hy và cả dân Armenia; đòi hỏi phải được cải tổ toàn diện. Đế quốc "caliphat" Ottoman của Sultan Abdulhamit II cầm quyền suốt 30 năm với chính sách "Tanzimat" (cải tổ) vẫn không tránh khỏi lụn bại, nợ nần và khống chế từ châu Âu như triều đình Habsburg của Áo, Catherine của Nga; sau này là Đức, Pháp và Anh. Bên cạnh các "sultans" như Selim II (1789-1807), Mahmut II (1839-1876) và Abdulhamit II sau đó là giới "osmanli" còn gọi là "askeri" (quân sự) và "ulema" (học giả Islam) cầm quyền làm sao bắt kịp đà tiến hóa kinh tế và khoa học bên châu Âu khiến Ottoman bị mất đất. Hiệp ước bất lợi Kucuk Kaynarca (tên một làng của Bulgaria) năm 1774 khiến Ottoman mất Crimea vào tay Nga 1779. Anh chiếm Jerusalem 1917.
 
Thất bại cải tổ do đảng cầm quyền CUP (Committee of Union and Progress, tên Thổ là "Ittihat ve Terakki Cemiyeti") của Ahmet Riza để duy trì Ottoman từ 1908 đến 1913 đã tạo nên một giới quân nhân trẻ chủ trương chiến đấu giành độc lập. Từ 1913 đến 1918 họ có biệt danh "Young Ottomans" và từ 1918 đến 1922 có biệt danh "Young Turks". Từ ngữ "Young Turks" xuất phát bởi Mustafa Fazil Pasha trong chuyến viếng Paris hồi tháng 6/1867 khi tự giới thiệu mình với báo chí phương tây như là đại diện nhóm "Jeunes Turcs" của quốc gia "Young Turkey"; tức "Yeni Osmanlilar" (Tân Ottoman) sang cầu hòa với Napoléon III. Đúng một thế kỷ sau, năm 1967 tại Saigon, nguyên đại sứ Mỹ Maxwell Taylor - một cựu đại tướng Mỹ - đã dùng biệt danh này để chỉ nhóm tướng trẻ của đệ nhị VNCH đang tranh giành quyền bính lúc đó (Thiệu, Kỳ, Khánh, Khiêm . . .)!
 
Nhóm Young Turks gồm các sĩ quan quân đội và các viên chức chính quyền Ottoman như Ali Suavi, Ahmet Riza, Murat Bey, Bahaettin Sakir, Dr Nazim ..vv.. trong đó có Mustafa Kemal, Sait Halim Pasha, Enver Pasha, Talât Pasha đã tham gia đệ I thế chiến chống Nga, Pháp và Anh; tuyên chiến hôm 11/11/1915. Ottoman thua nặng ở trận Sarikamis hồi tháng 1/1916; thiệt 78,000 quân. Ottoman có 800,000 quân hồi 1916; đến 1918 chỉ còn 100,000! Một trong các nguyên nhân thua trận là lính Ottoman gốc Armenia thường đào ngũ sang phía Nga. Dân Armenia lúc đó ở Anatolia khoảng 1.5 triệu (10% dân số Ottoman) theo đạo Công giáo Copic và Orthodox bị coi là thứ dân trong đế quốc Hồi giáo Ottoman nên không sốt sắng chiến đấu và sẵn sàng hy sinh. 
 
Để tránh nạn đào ngũ này, bộ trưởng nội vụ Ottoman là Talât Pasha đã ra lệnh tập trung toàn bộ dân Armenia vào thành Zor (nay thuộc Syria) từ 1915-1916; gây nên cái chết của gần một triệu dân Armenia mà sử sách gọi là cuộc tàn sát "Armenian Massacre" mà nhiều chính phủ Thổ cho tới nay đều chối bỏ trách nhiệm. Vụ tàn sát này được châu Âu, Nga và ngay cả ĐGH Francis hồi gần đây công nhận và qui trách nhiệm cho Thổ (cựu Ottoman). Các sử gia Thổ liệt kê số nạn nhân là 700,000 chết do đói khát, bệnh tật; do dân Muslim của Syria giết. Nhưng thống kê của các sử gia Armenia có con số gấp 10 lần và đa số do quân của Talat Pasha giết. Các sử gia phương tây liệt kê từ 600,000-800,000 và lí do cưỡng bách tập trung chỉ là cái cớ để che đậy chính sách diệt chủng của Ottoman hầu giải quyết vấn nạn "non-Muslim" này (thời đó chưa có từ "infidel" mà bọn Hồi giáo khủng bố ngày nay đang dùng)!
 
Mustafa Kemal chỉ huy trận lớn Afyon-Karahisar hôm 26/8/1922 và các trận khác thắng quân Hy-lạp; giành độc lập và thành lập đệ I Cộng Hòa Thổ hôm 29/10/1923. Ông từng phá tan thế lực lập cộng hòa Hồi giáo (như Iran sau này) của Enver hồi tháng 1/1921. Enver sau bị quân Liên-xô giết hồi tháng 6/1922. Kemal lập đảng "Mudafaai Hukuk Grubu" (bảo vệ quyền lợi); sau đổi là "Halk Firkast" (Nhân Dân). Ông lúc này được phong "Halâskar Gazi" (vị cứu tinh thống lãnh) của dân tộc. Ông cho kí hiệp ước Lausanne ngày 24/7/1923 với phe đồng minh (Entente) trong tư cách một tân quốc gia độc lập để tất cả quân ngoại quốc phải rút khỏi Thổ hôm 1/10/1923; chấm dứt thời kỳ chiếm đóng của các cường quốc tại đây. Tuy nhiên số phận dân Kurds và Armenia không được hiệp ước đề cập đến khiến hai vấn nạn này; nhất là Kurds đang là vấn đề nhức nhối nhất của Thổ hiện nay 2015. Sau 1923 khi quân các đại cường rút đi, nhiều cuộc tàn sát đã diễn ra ở Thổ khiến 2.5 triệu Muslims, 600,000-800,000 Armenians và 300,000 dân Hy-lạp bị thiệt mạng.
 
Kemal chọn Ismet Inonu (1884-1973) làm thủ tướng (1925-1937) và Ankara làm thủ đô thay vì Istanbul như Ottoman. Quốc hội Thổ do đảng "Halk Firkast" (People Party=PP) của ông nắm giữ đã họp hôm 1/3/1924 ra quyết nghị giải tán đảng của "caliphate"; đuổi hết các viên chức của Ottoman ra khỏi Thổ và ban hành Hiến pháp mới hồi tháng 4/1924 thay thế hiến pháp Ottoman 1876. Ông thi hành chính sách thế tục hóa quốc gia Thổ bằng các chiến dịch đóng cửa các "turbe" (lăng đền Islam) và "tekke" (dòng tu Islam) hồi tháng 9/1925, cấm đội nón kiểu sultan Mahmut II thời Ottoman và thay bằng mũ nón châu Âu. Trong thời kỳ này, tòa án độc lập đã phải bỏ tù 7,500 người bất tuân và xử tử 660 người phản kháng. Từ 1926, ông cho áp dụng tây lịch Gregory, dân luật Thụy-sĩ và hình luật Roma. Luật gia đình hoàn toàn theo thế tục. Ông cấm đa thê và tu sĩ lấy vợ! Phụ nữ được khuyến khích và tự do không đội khăn che mặt. Từ tháng 5/1926, ông thường xuyên đi kinh lí khắp nơi để kiểm tra việc thi hành. 
 
Nhân có nhiều cơ hội tiếp cận, thế lực phò Islam của cựu dân biểu Ziya Hursit đã tổ chức ám sát ông hôm 15/6/1926 khi ông đi kinh lí ở Izmir nhưng bất thành. Lợi dụng biến cố này, ông đã bắt phần lớn đảng viên Committee of Unionists Party (CUP). Phiên tòa hôm 26/6 và 12/7 kết án 16 án tử khiến 4 bị treo cổ hồi tháng 8; trong đó có Husseyin Rauf và Kara Kemal (tự tử sau khi trốn không thoát). Sau vụ này, ông cho thành lập đảng đối lập "Serbest Cumhuriyet Firkast" (Cộng Hòa Tự Do=FRP) có cả em gái Makbule tham gia mặc dù hiến phápThổ ghi rõ là quốc gia theo thể chế độc đảng. Ông lãnh đạo từ tư dinh ở Cankaya, nơi thường xuyên có hội họp và ăn uống (rượu) suốt đêm tới tận sáng để bàn quốc sự.
 
Mustafa Kemal nổi tiếng với bài diễn văn dài 36 giờ đọc trước quốc hội suốt từ ngày 15 đến 20/10/1927. Bài diễn văn được xem như là nền tảng của cải cách chính trị, xã hội, văn hóa và nhiều lãnh vực khác; được dịch ra Anh, Đức, Pháp ngữ từ 1928 đến 1929. Diễn văn đã tạo nên chủ nghĩa "Kemalism" kết tinh bởi nhiều chủ nghĩa giá trị khác là Republicanism, Nationalism, Revolutionism (Reformism), Populism, Statism và nhất là Secularism (chủ nhĩa thế tục)! Chủ nghĩa Secularism chủ trương bởi nhóm Young Turks từ hồi 1913 không chỉ tách rời giáo quyền (Islam) ra khỏi thế quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) mà còn tách tôn giáo (Islam) ra khỏi đời sống công cộng (public life) trong xã hội. Nhiều tác giả phương tây đã viết sách ca tụng tân quốc gia Thổ của TT Kemal: "Die Neve Turkei" (Kurt Ziemke 1930), "The Old Turkey and The New" (Sir Harry Luke 1935), "The Turkish Transformation" (Henry E. Allen 1935), "The New Turks" (Eleanor Bisbee 1951), "Modern Turkey" (Geoffrey Lewis 1955) ..vv..
 
Sau khi phụ nữ Thổ được đi bầu cử, ông cho giải tán đảng "Turk Kadinlar Birligi" (Công Đoàn Phụ Nữ Thổ lập hồi 1924) hồi tháng 5/1935. Cải cách ở Thổ từ 1925 đến 1935 diễn ra trong ba lãnh vực: 
1/ Thế tục hóa quốc gia về giáo dục và luật pháp vốn ảnh hưởng "ulema" (truyền thống Islam) sâu đậm từ sau trận thánh chiến 4 thắng Constantine: xóa bỏ giới "sultan" và chế độ "caliphate" trong hai đợt 1913-1918 và 1922-1924 và bằng hiến pháp mới 1928 xóa quốc giáo Islam, thay luật Seriat (Shari'ah) và hệ thống "ulema" năm 1926 bằng luật Swiss, xóa hệ thống đại học Hồi giáo "medreses" và thay bằng đại học công cộng University of Istanbul tháng 3/1924; 
2/ Xóa bỏ các biều tượng Islam và thay bằng các biều tượng châu Âu: cấm đội mũ "fez" thời các sultan hồi Ottoman và thay bằng mũ nón châu Âu hồi 1925, ra lệnh lấy chủ nhật làm ngày nghỉ thay vì thứ sáu của Islam, dùng đồng hồ và tây lịch Gregory từ 1926, dùng số châu Âu từ 1928 và dùng cân đo châu Âu từ 1931, dùng mẫu tự Latin từ 1928 thay thế mẫu tự Ả-rập và Persian áp dụng từ 1/1/1929 (các Young Turks Husseyin Cahit, Abdullah Cevdet, Celal Nuri đã cùng Munif Pasha từng gợi ‎‎ý từ 1862); 
3/ Thế tục hóa đời sống xã hội Islam để có xã hội tự do phát triển: phụ nữ được đi bầu và hành nghề chuyên môn như lái máy bay, hát opéra và thi hoa hậu.
 
Nước Thổ dưới sự cai trị của TT Kemal đã thành công về ngoại giao: Thổ kí hiệp định bất tương xâm với Ý năm 1928, hiệp ước hữu nghị với Hy-lạp hồi tháng 10/1930 và nhiều hiệp ước hòa bình khác với các nước vùng Balkan, Iran, Iraq và Afghanistan hồi các năm 1934 và 1937; với Liên-xô hồi 1935. Thổ tham gia hội quốc liên (League of Nations) - tiền thân của Liên Hiệp Quốc - năm 1932. Chế độ độc đảng của TT Kemal ở Thổ được so sánh với các chế độ Salazar ở Portugal (Bồ-đào-nha), Mextaxas ở Mexico và Franco ở Spain (Tây-ban-nha) hồi các thập niên 1930, 1940 nhưng nó không giống hẳn chế độ Mussolini ở Ý vì chế độ Mussolini là quân phiệt lập bởi phong trào qua mặt quốc vương; trong khi chế độ Kemal được hiến pháp do quốc hội lập hiến qui định. Khi đã đau yếu nặng trước khi qua đời mấy tháng, TT Kemal còn tiếp vua Carol II của Romania hồi tháng 6/1938.
 
Cộng Hòa Thổ của Kemal may mắn chỉ phải trả 78 triệu USD (65%) mà hội Quốc Liên (của phe đồng minh Entente thắng trận) buộc trong số nợ 170 triệu mà đế quốc Ottoman vay; phần lớn của vương quốc Đức là bên thua trận. Tuy nhiên phần lớn dân Hy và Armenia (2 giới nắm cán cân kinh tế Ottoman, Thổ) di cư sang Mỹ, Nga và Pháp nên Thổ thiếu chuyên viên kinh tế và kỹ thuật. Ngoài Ottoman Bank, Thổ còn có ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng kinh doanh lập năm 1924-1925 mà TT Kemal rất quan tâm. Sau thế chiến 2, kinh tế Thổ bị ảnh hưởng nặng vì kinh doanh với Đức, nước thua trận chiếm 50%. Thuế "Varlik Vergisi" đánh vào nhà giàu (non-Muslims) hồi tháng 11/1942 bị thất thu khi dân Armenia và Hy di cư sang Mỹ, Pháp và Hy-lạp. Thuế này bị bãi bỏ hồi tháng 3/1944. Bù lại, Thổ được nhận 10% tiền lời bán dầu thô của Anh ở Mosul suốt 25 năm khi hội Quốc Liên công nhận thành phố này thuộc về Thổ hồi tháng 6/1926; mặc dù quân Thổ đã bị quân Anh đánh đuổi khỏi Mosul hồi 1924. Hồi 1933, Pháp cũng chỉ đòi được một phần nợ mà Ottoman đã vay. 
 
Là một Muslim đủ trình độ để đọc sách Koran bằng tiếng Ả-rập, TT Kemal đã từng có bài viết trong một chương của quyển "Islamic History" và từng nghiên cứu về Islam qua các sách "History of Islamic Civilization" của Georgi Zaidan, "History of Islam" của Leone Caetani ..vv.. Nhờ vậy ông có nhận định và thực hành chính đáng về Hồi giáo. Ông xem Islam là gạch nối giữa con người và Thượng đế. Ông nói : "Tôn giáo là một vấn đề lương tâm. Ai cũng luôn được tự do để hành động theo lương tâm của mình. Chúng ta trong tư cách một quốc gia phải tôn trọng tôn giáo. Tước bỏ tự do cầu nguyện không phải là dự tính của chúng ta nhưng phải bảo đảm các vấn đề tôn giáo và chính quyền không được lẫn lộn". 
 
Ông phân biệt giữa xã hội và hành đạo cá nhân. Ông áp dụng các đòi hỏi thế tục khi có hành xử tôn giáo công cộng. Ông nói rằng "không ai được cưỡng bức kẻ khác phải nhận bất cứ tôn giáo hay giáo phái nào" (tự do tín ngưỡng). Đồng thời "ai cũng có quyền hành đạo hay làm ngơ mà bổn phận của bất cứ tôn giáo nào cũng phải để kẻ ấy chọn; chẳng hạn quyền không nhịn ăn dịp Ramadan". Các diễn văn và sách của ông chỉ trích hệ tư tưởng tôn giáo. Ông xem tôn giáo là "học viện không cần thiết" và có thể tránh được trong đời sống công cộng. Ông nói tự bản thân tôn giáo không có trục trặc gì mà "vấn đề là tín đồ hiểu và áp dụng tôn giáo ra sao". Tôn giáo đích thực không thể hiểu được bao lâu mà "các tiên tri dởm chưa bị cô lập".
 
Nhiều năm sau khi Thổ đã tiến bộ và thế tục hóa, TT Kemal đã chỉ trích luật Shari'ah của Islam là một luật "Ả-rập vô đạo đức". Ông viết; "Trong gần 500 năm, các luật lệ và chủ thuyết này của các sheikh Ả-rập và việc diễn đạt của các thế hệ giáo sĩ lười biếng và chẳng hữu dụng cho ai cả đã định đoạt luật dân sự và hình sự cho nước Thổ"; và rằng "họ định đoạt hình thức hiến pháp, chi tiết đời sống của mỗi công dân Thổ; cả thức ăn, giờ thức giấc và ngủ theo hình thái của quần áo; cả chu kỳ sinh sản con cái của người vợ, học cái gì ở trường, kiểu trang phục, tư tưởng san bằng trong các thói quen thân thuộc. Chủ thuyết Ả-rập vô đạo đức này (mà Islam đại diện) chính là sự chết. Có thể nó thích hợp với các bộ lạc ở sa mạc; nó không tốt cho một xứ sở tiến bộ và phát triển. Thượng đế dậy đi! Làm gì có Thượng đế! Đây chỉ là xiềng xích mà các giáo sĩ và nhà cai trị xấu dùng trói buộc dân chúng. Một nhà cai trị cần tôn giáo thì yếu đuối. Kẻ yếu đuối không được cai trị!".
 
Tổng Thống Kemal không thành công về mọi mặt trong đời. Ông không sống đủ thọ để xóa bỏ được tục dùng tên gọi thay vì tên họ như phương Tây để dễ lập hồ sơ lí lịch và tránh nạn trùng tên gọi không kiểm soát nổi; gây trở ngại hành chánh. Các phú nông ở nông thôn cứ rước thêm vợ bé về nhà mà không khai báo thì ông cũng chịu thua. Bản thân ông rất gương mẫu - chỉ cưới vợ một lần duy nhất - và hạnh phúc cũng chẳng bao lâu: Ông cưới Lalife hôm 29/1/1923 sau khi đã gặp bà sau trận Izmir hôm 8/9/1922 rồi ly dị hôm 5/8/1925 mà không có con. Từ đó ông ở vậy và nhận nhiều con nuôi (ông chọn ngày 23/4 là "Chidren Day" và 19/5 là "Youth and Sport Day" được quốc hội ban hành là 2 ngày lễ cho đến nay). Con nuôi chót là Ulku 3 tuổi nhận hồi 1935 đã gần gũi ông cho đến vài tuần trước khi ông qua đời. Ngoài trẻ con, ông cũng yêu gia súc. Ông có con ngựa Sakarya, con chó Fox và một con mèo. Ông lập trang trại "Ataturk Orman Ciftligi" năm 1925 để nuôi gia súc và trồng trọt. Ông lập Ankara Zoo phải mất 12 năm mới hoàn tất và khánh thành năm 1945. Ông bị chai gan vì uống nhiều rượu và chết vì bệnh này hôm 10/11/1938 tại dinh Dolmabahce ở Istanbul. Trước đó ông từng bị heart attack hai lần hồi 1923 và 1929 rồi đau yếu luôn từ 1937 cho đến khi mất năm 57 tuổi. Thông tin về sức khỏe của ông được giữ bí mật. Một tờ báo bị phạt đóng cửa 3 tháng khi lỡ đề cập đến thông tin này!
 
TT Mustafa Kemal mất hồi 9 giờ sáng ngày 10/11/1938 tại dinh Dolmabahce ở Istanbul; thọ 57 tuổi. Thi thể ông được tạm quàn ở bảo tàng viện Ethnographic ở đây trong khi chờ đợi việc xây lăng tẩm ở Ankara. Đội Takbirs & Prayers đã cử hành lễ an táng ông theo nghi thức Hồi giáo trong hội trường của dinh. Có 17 quốc gia gởi đại diện trong khi 9 quốc gia khác đã đem hiến binh chào kính đến lễ tang. Hồi tháng 11/1953, 138 sĩ quan trẻ đã đứng dàn chào suốt 3km khi thi thể nhà đại cách mạng được chuyển về thủ đô Ankara để chính thức chôn cất. Khoảng 21 triệu dân Thổ đã đứng tiễn đưa hai bên đường cùng với các đại sứ các nước, các tỉnh trưởng, các phụ tá ban ngành quốc hội, toàn bộ nội các chính phủ, tân thủ tướng Celâl Bayar và tân tổng thống Thổ Ismet Inonu tại địa điểm hành lễ là lăng Anitkabir xây ở ngoại ô thủ đô thời đó trên một đồi cao; nay là trung tâm thủ đô Ankara. Ông được quốc hội Thổ khóa họp tháng 12/1938 truy phong danh hiệu "Milli Sef" (lãnh tụ quốc gia) và "đảng trưởng vĩnh viễn" của đảng "Halk Firkast" cầm quyền. Tài sản của cố Tổng Thống Mustafa Kemal được chia phần lớn cho đảng Nhân Dân dưới sự giám sát của em gái Makbule và các con nuôi. Các quĩ dành cho Turkish Historical Society, Turkish Language Association và quĩ giáo dục trẻ em của Ismet Inonu được hưởng phần còn lại theo di chúc kí hôm 5/9/1938. Các diễn văn, thủ bút, nhật lệnh và tài liệu thời sinh tiền của ông từ 1923 đến 1937 được ấn hành trong nhiều quyển của bộ sách "Ataturk'un Butun Eserleri" (Mọi tác phẩm của Ataturk). 
 
Di sản vĩ đại của TT Kamal Atatuk là một quốc gia độc lập từ 1923 có quân đội hùng mạnh nằm trong khối NATO phú cường (từ ngày 18/2/1952). Thổ có được qui chế thành viên NATO năm 1952 nhờ vào việc đảng Demokrat Partisi của Adnan Menderes cầm quyền thời thập niên 1950-1960 đã đóng góp từ 5,000 đến 25,000 quân Thổ cho lực lượng hòa bình LHQ trong chiến tranh Triều-tiên hồi 1950. Nước Thổ vào thời điểm tháng 10/2014 là quốc gia đông Muslims mạnh nhất ở Trung Đông và là thành viên NATO mạnh thứ nhì chỉ sau Mỹ với 315,000 TLP (bộ binh - Turkish Land Forces). Mỗi binh đoàn chia làm 4 lữ đoàn biệt động, 9 lữ đoàn bộ binh, 14 lữ đoàn thiết vận và 17 lữ đoàn cơ giới trang bị đúng theo cấp số. Theo IISS (International Institute for Strategic Studies - Viện Quốc Tế Nghiên Cứu Chiến Lược) năm 2014, KQ Thổ có 60,000 nhân viên quân sự, 668 máy bay; trong đó có 200 phản lực cơ chiến đấu F-16. 
 
Nhưng vĩ đại nhất vẫn là di sản của ông về văn hóa: Quốc ngữ Thổ mẫu tự Latin nay vượt ra ngòai lãnh thổ chánh quốc sang 5 lân bang cựu tiểu quốc của Soviet, nơi có đông dân Thổ là Azerbaizan, Kazakhstan, Kirghizia, Turkmenistan và Uzbekistan. Những cải cách xã hội vĩ đại của ông liên quan đến giáo dục và nữ quyền khiến Thổ là quốc gia đông Muslims duy nhất có gần đủ phẩm chất văn minh để xin gia nhập liên hiệp châu Âu. Nhà sư phạm Thổ tốt nghiệp ở Đức, Gs Ismail Hakki Tonguc được TT Kemal chỉ định thực hiện chiến dịch xóa nạn mù chữ từ 1935 nhưng kết quả ở các tỉnh lẻ không như dự liệu: trong 40,000 làng xã nông thôn, chỉ có 5,000 có trường tiểu học. Hơn nữa, từ thập niên 1980s khi đảng "Refah" (Welfare) của giới bảo thủ Islam Thổ chiếm từ 19.1% năm 1994 tăng lên gần 30% trong quốc hội chi phối lập pháp đòi áp dụng lại luật Shari'ah; nhiều đền thờ Islam được xây thêm và nhiều "imam-hatip" được đào tạo; do dó, nạn mù chữ ở vào thập niên 1990s có đến 35% bởi chủ trương trau dồi kinh Koran và mẫu tự Arab! 
 
Bước thụt lùi văn hóa này cũng song hành với vấn đề sắc tộc Kurds tồn tại cho đến ngày nay của thế kỷ 21. Ngay từ 1912, các sinh viên Kurd đã lập đảng "Hevi" (hy vọng) và đến 1923, các cựu binh Kurds trong quân đội Ottoman đã lập đảng "Azadi" (tự do) để đòi độc lập hay ít ra là tự trị. Dân Kurds đã nổi loạn ở Diyarbakir hồi tháng 2/1925. Do hàng thế kỷ phải cầm súng để tranh đấu, sẽ không có gì lạ khi dân quân  Kurds hiện là đội ngũ chiến đấu hữu hiệu nhất để chống lại "quốc gia hồi giáo" (ISIS) của Al Baghdadi mặc dù thường bị cản trở bởi quân Thổ hiện nay. Theo báo The Guardian ở Anh, tài liệu Mỹ bắt được trong vụ SEAL đột kích sào huyệt Raqqa của ISIS ở Syria hồi cuối tháng 8/2015 để giết phụ tá về tài chính của lãnh tụ ISIS là Junaid Husssain cho thấy Thổ của Erdogan đã mua dầu thô giá rẻ của ISIS; giúp tài chánh từ 1 đến 4 triệu đô mỗi ngày cho tổ chức cùng hệ phái Sunni này mua vũ khí. Erdogan còn chỉ điểm cho ISIS tấn công sinh viên Thổ gốc Kurd đến Suruc hôm 20/7/2015 để họp bàn tái thiết Kobani; giết chết 32 sinh viên và làm bị thương khoảng 100 người khác.
 
Đảng PKK của người Thổ gốc Kurd do sinh viên Abdullah Ocalan ở Ankara University lập năm 1978 vẫn là đảng mạnh nhất trong mấy đảng tranh đấu đòi độc lập của người Kurds hiện nay. Do đó, Thổ dưới sự lãnh đạo của TT Tayyip Erdogan hiện lo ngại người Kurds (dân số 15 triệu trong tổng số 80 triệu dân của Thổ hiện nay) hơn là bọn Quốc Gia Hồi Giáo (Daesh-ISIS) vì quân ISIS không chính quy và nguồn vũ khí giới hạn không có tiềm năng thay thế; trong khi quân Kurds bên trong Thổ (đảng PKK), Iraq và Syria (HDP) đều tinh nhuệ bậc nhất trong vùng và chiến đấu trường kỳ cho tương lai một quốc gia độc lập Kurdistan mà lãnh thổ sẽ là những phần đất dọc tam biên họ chiếm được từ tay ISIS. Mỹ đã tín nhiệm và yểm trợ họ hết mình để chiếm lại được Kobani (hiện do HDP - đảng Dân Chủ Nhân Dân Kurd quản lí) và nhiều phần đất khác từ tay ISIS. 
 
Để chận đứng nguy cơ lập quốc ở vùng tam biên này (mà Thổ có thể bị mất một phần đất) của quân Kurds, TT Erdogan sau thời gian dài từ khước đã đột ngột giả vờ cùng Mỹ tham gia oanh tạc ISIS để tiện thể tiêu diệt quân Kurds - mà tiêu diệt Kurds là chủ yếu - nhưng Mỹ thấy điều này và đã nhắc nhở. Erdogan bèn đánh đổi việc cho Mỹ dùng căn cứ KQ Thổ Incirlik sát Syria hồi tháng 7/2015 để đánh đổi việc Mỹ (vẫn oanh tạc ISIS) thôi yểm trợ trực tiếp quân Kurds ở đây và Obama đã đồng ý theo điều lệ của NATO. Recep Tayyip Erdogan từng là đảng viên AK (Phát Triển) của cố TT Kamal chủ trương Thổ thế tục; thế nhưng từ khi nắm quyền (Thủ Tướng) cách nay 11 năm và mới cuối năm 2014 đắc cử Tổng Thống (thứ 12 của Thổ), Erdogan ngày càng chịu ảnh hưởng của bọn imams-hatip muốn biến Islam thành quốc giáo của Thổ; đi ngược chủ trương của vị lập quốc. 
 
Erdogan còn sinh tật tham nhũng: Cuối năm 2013, một băng thu lén được phổ biến; trong đó Erdogan thúc giục con trai hãy đem gói tiền mặt lớn trong nhà đi giấu chỗ khác. Sau đó Erdogan đã cách chức vô số viên chức tư pháp, cảnh sát và bỏ tù cả trăm kí giả để trả thù. Ảnh hưởng vụ này phần nào khiến đảng đương quyền của Erdogan mất thế đa số tại quốc hội trong kỳ bầu cử mùa xuân 2015 vừa qua; trong khi đảng HDP thân Kurds chiếm 12%. Mỹ chắc chỉ ưa Erdogan nhất ở chỗ ông ta thù cá nhân TT Syria Bashar al-Assad; kẻ mà Mỹ phải trừ khử vì đã để Putin duy trì quân cảng Nga (từ thời Soviet đến nay) - quân cảng ngoại quốc duy nhất đối nghịch với Mỹ - ở Trung Đông và vì đã giúp tổ chức Hồi giáo khủng bố Hebollah giết trên 250 lính Mỹ ở Lebanon thời thập niên 1980 rồi chiếm đóng nước này thập niên sau đó!  
 
Trong một bài viết có tựa đề "Medeni Bilgiler", cố Tổng Thống Mustafa Kemal đã mô tả Islam là "tôn giáo của người Ả-rập"; và trước khi đón nhận tôn giáo này, Thổ "đã là một quốc gia lớn". Tôn giáo này đã "không hữu hiệu trong việc kết hợp các sắc dân Ả-rập, Ai-cập, Trung đông và Thổ để cấu thành một quốc gia"; trái lại nó còn "khiến quan hệ quốc gia lỏng lẻo" và "hưng chấn quốc gia bị tê liệt". Điều này "rất tự nhiên"; vì "mục tiêu của Islam do Muhammad thành lập là lôi kéo chính trị quốc gia Ả-rập vào trong đó". Theo sử gia Kemal Karpat, TT Kemal "không chống Islam" nhưng những kẻ chống quyền chính trị của ông "đã dùng tranh cãi tôn giáo" để chống ông; và rằng ông là một "kẻ thống trị kém cần tôn giáo để dựa như thể gài dân tộc ông vào cái bẫy". Điều này có lẽ chỉ đúng đối với cá nhân Recep Tayyip Erdogan; kẻ biến chất và tham nhũng cần núp bóng bọn imams-hatip để sự nghiệp chính trị của mình sống còn; phản bội truyền thống Thổ mà cố Tổng Thống Mustafa Kemal Ataturk đã dày công xây dựng!
 
 
HÀ BẮC

Wednesday, November 11, 2015

Mark Owen kể về cuộc hành quân tiêu diệt Osama bin Laden

Sau trận nổ súng, họ đã giết Osama bin Laden và bắt giữ xác chết của y". TT Mỹ xem cuộc hành quân này là "thành tựu nổi bật nhất cho tới nay trong nỗ lực của cả nước đánh bại al-Qaeda". Ông ca tụng các anh hùng "vô danh" này và cám ơn đội biệt kích SEAL; nói rằng "Nhân dân Mỹ không chứng kiến việc họ làm; cũng không biết tên họ".

 

nơi ẩn náu của trùm khủng bố Osama bin Laden.

Từ chương 10 của quyển hồi kí "No Easy Day", sau những mô tả về quá trình huấn luyện và tham gia các cuộc hành quân giải cứu con tin viết trong các chương trước đó, tác giả mang tên ngụy trang "Mark Owen" đã kể tỉ mỉ về cuộc hành quân "Neptune Spear" hôm 1/5/2011 tiêu diệt Osama bin Laden tại Abbottabad, Pakistan. "Abbottabad" được đặt theo tên của Thiếu-tá James Abbott trong quân đội hoàng gia Anh, người đã đóng quân và khai hoang vùng này thời thực dân Anh cai trị Ấn-độ; bao gồm Pakistan ngày nay.
 
Cuộc hành quân thắng lợi hoàn toàn vì đạt mục tiêu và không tổn thất binh lực; chỉ tổn thất về binh khí do tai nạn. Chiến công ấy vẻ vang bao nhiêu thì sự hy sinh nhân mạng ấy lại bi thảm bấy nhiêu vài tháng sau đó chỉ vì lời khoe khoang hớ hênh vô trách nhiệm của viên phó tổng tư lệnh quân đội.
 
Qua thuyết trình trong một phòng hành quân thuộc một BCH của quân đội Mỹ ở N. Carolina vào một ngày thứ ba trong tuần, "Mark Owen" (MO) được biết CIA đã tìm ra nơi ẩn náu của trùm khủng bố Osama bin Laden (OBL) sau một thập niên mất dấu và sau 5 năm tìm kiếm bằng vệ tinh và tin tức tình báo. Đó là một căn nhà gạch bê tông cốt sắt xây năm 2005 với tổn phí gần một triệu USD; nằm trong khuôn viên tam giác rộng một acre rất gần với một trung tâm huấn luyện quân sự của quân đội Pakistan. Căn nhà không có đường giây điện thoại, không có internet và cũng không có dịch vụ đổ rác; cô lập với dân chúng chung quanh để bảo mật tuyệt đối. Việc liên lạc với đồng bọn và mạng lưới khủng bố bên ngoài do tên giao liên Ahmed al-Kuwaiti với chiếc xe truck màu trắng. Cellphone của y chỉ dùng sau khi đã ra ngoài phạm vi thành phố này.
 
Mục tiêu là OBL. Y sinh ngày 10/3/1957 tại Riyadh, Saudi Arabia. Bố Mohammed Awad bin Laden là tỷ phú kinh doanh ngành xây dựng. Mẹ Alia Ghanem gốc Syria là vợ thứ 10 bị chồng bỏ rơi hồi OBL 10 tuổi rồi lấy chồng khác. OBL sống với mẹ và 4 anh chị em cùng mẹ khác cha nên ít biết về bố ruột. Y gia nhập nhóm Hồi giáo quá khích khi học trung học ở Jeddah. Y lấy người chị em họ năm 18 tuổi và có đứa con trai đầu tiên khi vừa xong trung học năm 1976. OBL vào học ở King Abdulaziz University ở Jeddah môn quản trị hành chính. Y đến Peshawar, Pakistan rồi Afghanistan năm 1979 để tham gia thánh chiến đánh Liên-xô. Trở về nước năm 1989 sau cuộc chiến thắng lợi ấy, y chỉ trích chính quyền sở tại tham nhũng nên bị trục xuất sang Sudan năm 1992. Năm 1993, OBL lập tổ chức "al-Qaeda" (nghĩa là "căn cứ địa") qui tụ tín đồ Hồi giáo khắp Trung Đông để thành lập một quốc gia Hồi giáo thống nhất toàn vùng và để chống Mỹ.
 
Thành tích đầu tiên của y là phục kích một xe tải và giết một số lính Mỹ ở Saudi năm 1996. Sudan trục xuất y vì áp lực quốc tế nên y phải qua Afghanistan sống dưới sự bao che của Taliban. Từ căn cứ địa xứ này, OBL tuyển mộ quân và tổ chức đặt bom tòa đại sứ Mỹ ở Kenya và Tanzania năm 1998; giết gần 300 người. Y chỉ huy tấn công chiến hạm USS Cole thả neo ở cảng Aden năm 2000. Thành tích nổi bật nhất là vụ khủng bố hai tòa cao ốc thương mại ở NY, Pentagon ở Washington DC và Pennsylvania hôm 11/9/2001; giết gần 3,000 người. Sau khi chế độ Taliban bị lật đổ cuối năm đó, OBL sém bị bắt tại vùng đồi núi hiểm trở Tora Bora ở Afghanistan nên phải rút về Pakistan ẩn náu và bị theo dõi từ 2007 tại đó.
 
Tại khuôn viên căn nhà ẩn náu, OBL thường đi bộ quanh vườn nhiều giờ mỗi ngày. Nhìn từ vệ tinh, đó là một chấm nhỏ như con kiến xuất hiện hàng ngày; phần lớn một mình nhưng cũng có khi với con nít và đàn bà. Do đó, y được giới tình báo đặt cho tên hiệu là "Pacer" (người rảo bộ). Hàng rào gạch cao bao quanh đủ che khuất sinh hoạt trong sân và tầng 2, 3. Các cửa sổ được sơn đen để tránh dòm ngó. Rác được đốt tại chỗ. Mọi người không ra ngoài để tránh tiếp xúc. Abrar al-Kuwaiti và vợ phụ trách an ninh, chợ búa và bếp núc cùng với vợ của người anh em ruột Ahmed al-Kuwaiti phụ trách giao liên.
 
Đầu mối để tìm ra OBL chính là từ Ahmed. CIA hỏi cung Mohammed al-Qahtani, kẻ đáng lẽ đã là tên khủng bố thứ 20 trong bọn hôm 11/9/2001 nhưng không hội đủ giấy tờ nên không nhập cảnh được. Sau đó OBL điều y đến Tora Bora và y bị bắt tại đây tháng 12/2001; bị giam tại Guatanamo ở Cuba rồi được thả. Thủ lãnh nhóm là Mohammad Atta hồi đó đã đến Orlando Airport đón y nhưng không gặp. Tên al-Qahtani đã khai rằng Khalid Sheikh Mohammed đã điều y đến Mỹ hôm 11/9 ấy và cả hai đều biết Ahmed là thân cận của OBL. Một giao liên khác tên Hassan Ghul bị bắt năm 2004 cũng khai biết Ahmed là thân tín của OBL. Sau khi Khalid bị bắt, Abu Faraj al-Libi thay thế y; cũng bị quân đội Pakistan bắt và khai từng gặp Ahmed và người anh em ruột Abrar là hai thân tín Hồi 2010 trong một lần gọi cho gia đình, Ahmed khi bị ép hỏi mãi rằng bây giờ đang làm gì, Ahmed bảo "vẫn làm như cũ"; để tránh đề cập đến job và chủ nhân của y. Câu trả lời này giúp CIA kết luận vai trò giao liên của y vẫn còn liên tục và cần điều tra kỹ hơn. Chuyên viên cơ quan vệ tinh tình báo kỹ thuật NGIA tên "Jen" - một phụ nữ tóc vàng trạc tuổi 30s được trao phó nhiệm vụ theo dõi OBL và căn nhà suốt 5 năm - cho biết Ahmed di chuyển bằng xe truck màu trắng có hình con tê giác trên vỏ bọc bánh xe sơ-cua thường đậu trong sân nhà. Cả hai anh em Ahmed và Abrar đều sống với vợ con ở tầng trệt. Con trai Khalid của OBL ở tầng 2, còn OBL ở tầng trên cùng với 2 bà vợ, một già một trẻ. "Jen" cam đoan 100% OBL ở đó. "Jen" cũng cho biết cư dân trong nhà đã quen tiếng trực thăng của Pakistan vẫn bay ngang căn nhà từ căn cứ quân sự gần đó.
 
Bộ trưởng QP Robert Gates muốn dùng giải pháp B-2 oanh tạc phá hủy vị trí để tránh rắc rối về chủ quyền "nước bạn" và về ngoại giao trong trường hợp toán bị bắt làm tù binh; rút kinh nghiệm cuộc hành quân Eagle Claw thất bại ở Iran mấy thập niên trước đây. Vì giải pháp này không đem lại bằng chứng DNA được nên đã bị bỏ. Thành viên đội biệt kích gồm 28 quân nhân thiện chiến và kinh nghiệm chia làm 2 nhóm đi trên 2 trực thăng Black Hawk; mỗi tiểu nhóm gồm 3 người, một thông ngôn tên "Ali" để đối phó với dân bên ngoài, một quân khuyển tên Cairo để tìm kẻ ẩn trốn trong khuôn viên nhà. "Will" là quân nhân Mỹ duy nhất nói tiếng Arab (Pashun) để tiếp xúc với cư dân trong căn nhà.
 
Ngòai ra còn có 4 quân nhân hậu bị để bổ sung khi có thương vong. Quân trang mỗi người nặng 60 pounds gọi là CPDD gồm botte de saut hiệu Solomon Quest loại leo núi, dao Daniel Winkler, 2 radios và antennes, 3 băng đạn HK 416, 1 lựu đạn, kính night-vision goggles 4 ống nhòm ra 120 độ (giá $65,000), 1 đèn hóa chất, 2 micros và ống nghe để nói với đồng đội và nhận lệnh, 1 sổ nhỏ có tên các mục tiêu, các làn sóng điện và ảnh của các đối tượng, 1 digital camera hiệu Olympus và $200 để mua sắm hay hối lộ trong tình huống bị thất lạc. Có 2 đề nghị (bị bỏ) đem theo đèn cảnh sát để gắn trên nóc xe của Ahmed giả làm xe CS địa phương khi bị lộ và trường hợp bị bắt, trưởng toán sẽ khai là đi tìm drone bị mất tích! "Walt" nhắc đừng bắn OBL vào mặt vì Từ căn cứ quân sự ở N. Carolina, họ lên vận tải cơ C-17 bay 9 tiếng đến CHLB Đức tiếp nhiên liệu rồi bay tiếp 8 tiếng nữa đi Bagram, một căn cứ của NATO ở phía bắc thủ đô
 
Kabul; lớn như một thành phố với hàng ngàn quân nhân và dân chính phục vụ. Họ rời C-17 qua cửa hậu rồi leo thẳng lên C-130 bay đi Jalalabad, một căn cứ thuộc RCE ở miền đông Afghanistan có 1,500 quân thuộc binh chủng Biệt Động và DEVGRV (nhóm đặc vụ); và một số dân chính. Lính bản xứ phụ trách canh gác vòng đai. Phi đạo nằm ngay giữa; chia căn cứ ra làm đôi. Họ nằm tại đây 2 ngày chờ lệnh lên đường ngày thứ ba nhưng vì thời tiết phải nằm thêm một ngày nữa. Trung đoàn 160 KQ phụ trách cung cấp phương tiện 2 trực thăng Black Hawk cho họ.
 
Tác giả "Mark Owen" (MO) lên Black Hawk 1 (BH-1) do pilot "Teddy" lái. Hành trình 90 phút từ Jalalabad đưa họ đến nơi lúc sau nửa đêm. Vì sân căn nhà có trở ngại nên Teddy lúng túng gây tai nạn khiến đuôi trực thăng bị vướng tường rào, đầu chạm đất; mất quân bình vì cánh quạt chém đất không bay lên được. Tất cả phải chui xuống dưới bụng máy bay để tiến vào mục tiêu. "Charlie" dẫn một toán phá các khóa cổng sắt hình chữ L bằng chất nổ để vào phòng khách. Họ không lo bẫy xập vì ở đây có nhiều con nít. BH-2 phải đáp bên ngoài khuôn viên để tránh tai nạn. Khuôn viên và căn nhà tối om không mở đèn; có lẽ như mọi ngày. Tiếng chất nổ khiến người trong nhà bị đánh thức. Khác với tiếng súng hãm thanh của phe ta, một tràng AK-47 nổ vang từ khe cửa căn phòng rời ở tầng trệt ra bên ngoài nhưng không trúng mục tiêu nào. Qua night-vision goggles và tia laser báo hiệu, MO nhắm bắn xuyên cửa sắt, nơi có người đang chuẩn bị tác xạ.
 
"Will" gọi bằng tiếng Arab "Ahmed al-Kuwaiti ra ngay!". MO bắn thêm một tràng nữa vào vị trí dự trù của đối phương rồi "Will" lại gọi nữa nhưng không thấy trả lời. MO dùng chất nổ phá khóa và định tung lựu đạn vào phòng ngủ; nhưng cả hai lùi ra xa để ngừa lựu đạn có thể ném ra. Ngay lúc ấy, cánh cửa từ từ mở với giọng phụ nữ nói từ trong ra. Tay người đàn bà ôm vật gì tưởng là chất nổ nhưng night-vision goggles cho thấy đó là một baby. Ba trẻ khác đi ra theo người mẹ mà sổ tay cho biết là Mariam, vợ của Ahmed. "Will" gọi y thị "Lại đây!". Mariam nói "ông ấy chết rồi! Ông bắn ông ấy chết rồi! Ông đã giết ông ấy chết!". MO tiến lại cánh cửa; thấy 2 chân của Ahmed thò ra bèn bắn thêm mấy phát cho chắc ăn; sợ hắn giả chết hoặc vợ hắn nói dối. MO thấy khẩu AK-47 và khẩu súng ngắn nằm ngay cạnh hắn. Trong phòng có mùi dầu khét. Chiếc giường lớn nằm giữa phòng; các giường nhỏ nằm quanh tường; cả nhà ngủ chung một phòng! Đối diện hành lang là phòng bếp bị trúng đạn khiến mọi thứ văng tứ tung; nước tuôn ra sàn lẫn với máu gây trơn trượt.
Cả toán ra ngoài báo cáo "kết liễu xong C-1" sau 10 phút rồi nhập với toán kia tiến vào căn nhà lớn qua cổng A-1 đã bị phá khóa. Tin tình báo cho biết OBL thường dùng cổng bắc; còn Ahmed dùng cổng nam. Toán 3 người của "Tom" phá cổng này định lên tầng 2 thì thấy 2 cửa nữa nằm hai bên cuối dãy lành lang tầng trệt. Qua night-vision-goggles, "Tom" thấy một cái đầu lấp ló ở cửa bên trái sau một tràng AK-47 phát ra từ đó. "Tom" bắn theo hướng dẫn của tia laser từ goggles; trúng Abrar. Y quỵ xuống vì trúng đạn. Vợ Bushra của y chạy ra; chưa kịp nhặt súng thì lãnh đủ tràng đạn thứ hai của "Tom" khiến cả hai chết cùng lúc tại chỗ. Một phụ nữ nữa và 2 đứa trẻ ra ngồi ở góc phòng khóc la. "Tom" rút băng đạn ra khỏi khẩu AK-47 rồi đưa cho đồng đội vứt ra ngoài sân tối đen như mực mà không sợ ai tìm nó. Bỏ mặc người đàn bà và con trẻ trong phòng, MO cùng với "Tom" và "Will" đi về hướng tây nhập vào toán đang xếp hàng tuần tự leo lên tầng 2 vì cầu thang hẹp.
 
Nhóm của BH-2 cũng đã có mặt trong sân nhà và tiến về cổng bắc, nơi "Charlie" đang dùng chất nổ phá khóa sắt. Có tiếng gà bị động kêu ở cuối hành lang hẹp. "Jay" của BH-2; không biết BH-1 bị tai nạn; nghe Walt báo cáo về việc này xong rồi ra sân gọi QRF báo cáo vẫn theo kế hoạch A vì không có thương vong; không cần quân viện. Sức ép của chất nổ khiến một cánh cổng xúc ra khỏi bản lề văng vào bức tường đối diện; súyt đè mấy đồng đội vừa rời khỏi chỗ núp ở đó. Cầu thang hẹp lại cong 90 độ ở chỗ quẹo gây nghẽn lối; tạo cho OBL có dư thì giờ phòng thủ. Xác Abrar lại nằm cản gần nền phẳng chỗ lên cầu thang; máu còn đọng trên sàn đá hoa cương. Night-vision goggles cho thấy một cái đầu vừa thụt xuống bệ tường gần đó; có lẽ là của một trong 4 đàn ông trong nhà mà giờ đã chết hai; vậy hẳn là của Khalid, con trai OBL. Một đồng đội khẽ gọi "Khalid, Khalid!". Cái đầu vừa nhô lên để nhận dạng xem ai gọi thì lập tức lãnh đủ nguyên một viên đạn vào mặt khiến y ngã lăn đùng xuống cầu thang nhiều vòng rồi nằm im ở tầng dưới. Nếu không có chiến thuật "gọi tên" gây bối rối cho đối phương thì khẩu AK-47 lên đạn sẵn rớt tại vị trí cũ của y hẳn đã gây thương vong nào đó cho phe ta!
 
Cả toán tiến lên tầng 3 vào phút hành quân thứ 17 để đối phó với mục tiêu chính: OBL. Có hai cửa xuất hiện cách đó khoảng 5 feet ngay phía trên cầu thang hẹp. Hai tiếng "Bụp, bụp" phát ra từ một họng súng hãm thanh của toán khiến cho bóng một đàn ông sau khe cửa thụt vào trong. Night-vision goggles cho thấy bóng hai phụ nữ đang đứng gào khóc cạnh một đàn ông ngã quỵ bên một chân giường. Người phụ nữ trẻ hơn nhìn ra cửa đã mở; thấy toán biệt kích SEAL thì la hét rồi vùng chạy lao về phía họ cách đó 5 feet. Một đồng đội phải túm lấy y thị đem ra góc phòng. MO theo đồng đội thứ ba vào phòng; thấy một đàn ông nằm cạnh chân giường; áo thun trắng ngắn tay, quần lỏng và khăn trùm đầu màu sậm. Hai phát đạn đã bay trúng mắt bên phải. Máu và óc phọt ra ngoài sọ. Đương sự còn quằn quại, co giật và giẫy giụa chưa chết. Một đồng đội bắn tiếp mấy viên vào ngực y khiến y bất động và chết hẳn. Ba đứa trẻ chạy về phía cửa kính có bánh xe lăn mở ra phía hành lang rồi ngồi đó kinh ngạc. Trong phòng ngủ có bàn giấy nhỏ và phòng vệ sinh cũng nhỏ. Phụ nữ trẻ tên Amal al-Fatah, vợ thứ 5 của OBL nằm trên giường la khóc; hai tay ôm bứt đầu tóc. Vết thương ở chân của y thị rất nhỏ; chắc do đạn trượt hoặc mảnh kim loại. Người đàn bà kia và 3 trẻ em được dẫn ra khỏi phòng.
 
Cả toán khám xét các phòng chung quanh rồi trở lại căn phòng vẫn không mở đèn để xem xét xác chết. "Walt" đứng sát thấy mặt y bị trúng một viên ngay trán bên phải. Lỗ đạn trũng khiến sọ bị méo. Ngực y bị xé nát. Lưng nằm trên vũng máu. 
 
"Tom" nói có lẽ là OBL nhưng chưa gọi báo cáo vì biết TT Obama đang theo dõi chờ kết quả chính xác. MO chụp một số ảnh toàn hiện trường và xác chết. Cái mũi cao của y không bị đạn nên dễ nhận ra nhất. Bộ râu dài nhuộm đen láy. "Walt" lấy nước trong ống trang bị ra rửa mặt OBL rồi lấy mẫu DNA trong miệng và máu từ đùi y. Mỗi mẫu DNA và máu đều lấy hai lần để trên 2 BH khác nhau để phòng tai nạn máy bay gây thất lạc. "Tom" ra ngoài gọi radio báo cáo. MO lấy mền trên giường lau mặt y; càng lau sạch trông càng thấy quen quen; rồi chụp thêm nhiều ảnh khác. Ông lật râu y qua mỗi bên rồi vén mí mắt y lên để Dưới tầng 2, các đồng đội đang thu thập computers, memory cards, videos, notebooks và các tài liệu khác để đem theo. Bên ngoài căn nhà, "Ali" đang bảo hàng xóm hiếu kỳ giải tán về nhà ngay. "Mike" đang nói trên radio gọi chuyên viên EOD đến để phá hủy chiếc BH bị nạn. Nhìn ảnh đen trắng từ vệ tinh trông như nó đang đậu chứ không phải rớt vì còn nguyên vẹn. Các bộ phận truyền tin và "nhạy cảm" ở cabin chính được phá hủy trước để tránh lọt vào tay Trung Cộng. Bộ phận hãm thanh của đuôi phi cơ đã được TC hỏi Pakistan để mua nhưng Mỹ áp lực lấy về kịp. "Will" hỏi Amal tên người chết nhưng y thị không trả lời. Phụ nữ kia chỉ bảo y là "Sheikh" (ngài) và vài tên hiệu khác. Ông lại sát bên bé gái hỏi thì được nó trả lời là "Osama bin Laden". Ông hỏi có chắc không thì nó bảo "Chắc!" rồi ông nói cảm ơn và trở lại túm cánh tay một phụ nữ lắc mạnh kiểu đe dọa và nạt "người chết kia tên gì nói mau!". Bà ta sợ hãi trả lời "Osama". Ông vặn hỏi thêm "Osama nào?"; bà ta trả lời "Osama bin Laden!".
 
"Will" ra ngòai cho "Jay" và "Tom" biết đã được cả hai nguồn xác nhận. MO đem ảnh mẫu lại kề sát mặt xác chết để "Jay" đối chiếu và xác nhận. "Jay" dùng radio vệ tinh gọi đô đốc McRaven ở Jalalabad, người đang trực tiếp cập nhật tin tức từng phút về cho White House rồi đọc code hiệu "Geronimo EKIA" (OBL killed in action). Sau đó ông cùng môt đồng đội lôi chân OBL ra ngoài để chờ bao đựng xác. MO lục lọi phòng ngủ lấy thêm vài miếng giấy và quần áo của OBL bỏ vào bao tang chứng. Khi bước ra, ông với tay lấy khẩu AK-47 và khẩu súng ngắn Makarov để trong kệ ngay trên nóc cửa ra vào. Băng đạn trong cả hai súng đều không có đạn; chứng tỏ y chỉ xúi tín đồ "tử đạo" còn y thì không có ‎định chiến đấu. May thay bên ngoài, hàng xóm hiếu kỳ đã về hết.
 
Toán đặc vụ SEAL giờ đã gần hết 30 phút hành quân qui định; đang chuẩn bị cuốn gói thì toán trên tầng 2 xin thêm 10 phút nữa. "Will" dẫn đàn bà con nít của OBL và hai anh em al-Kuwaiti vào phòng lớn nhất tầng trệt rồi đóng cửa để chuẩn bị cho nổ phá hủy BH-1. Xác hai anh em al-Kuwaiti cũng được lấy DNA và chụp ảnh. "Mike" ra hiệu còn 5 phút nữa phải rút lui; dù phải bỏ lại chiến lợi phẩm khác. Toán BH-1 của "Teddy" lên CH-47 cùng xác OBL. "Walt" ngồi ngay trên ngực OBL đặt giữa máy bay như sợ nó lăn đi mất! MO ngồi ngay sau ghế pilot. Trên máy bay, "Walt" mở fermeture ra lục 2 túi quần xác chết tìm thêm tài liệu như số phôn và địa chỉ liên lạc nhưng không thấy. Đến sân bay Jalalabad, một Trung sĩ cùng 3 quân nhân chạy đến nhận xác. MO phụ nắm một đầu cái bao đem vào lòng chiếc Toyota Hilux màu trắng chờ sẵn. Đô dốc McRaven đứng trong nhà máy bay sốt ruột chờ xem OBL. MO kéo râu y qua mỗi bên cho ông xem. Ông hỏi chiều cao của một binh sĩ đang xúm quanh ông rồi nhờ anh nằm cạnh OBL để đo xem chiều cao của y có đúng 6.4 feet hay không. Chuyên viên "Jen" đứng xem từ xa và từ chối lại gần. Có thể nói đây cũng là thánh tích riêng của bà sau 5 năm theo dõi. Xác được đem lên vận tải cơ C-130 bay về căn cứ Bagram. Tại đây, toán tình báo tiếp thu các máy móc, tài liệu suốt 2 giờ liền mới xong. FBI lấy mẫu DNA lần nữa rồi trả cho toán biệt động đưa xác ra máy bay chở ra chiến hạm USS Vinson để thủy táng. Một chuyên viên CIA nói chắc phải mất mấy tháng mới nghiên cứu hết các chiến lợi phẩm này vì nó nhiều hơn những gì họ đã thu thập trong 10 năm qua!
 
Tại Abbottabad, tiếng nổ lớn phá hủy BH-1 khiến giới quân sự Pakistan báo động. Họ cấm mọi phi cơ cất cánh và cho 2 chiếc F-16 với đại bác 30mm và hỏa tiễn lên tiến về Abbottabad ứng chiến; vì nghi bị kẻ thù Ấn Độ tấn công! Trong khi đó tại White House, TT Obama lên TV lúc 11:35pm cùng ngày nói chuyện với đồng bào về kết quả cuộc hành quân "Chào buổi tối! Đêm nay tôi có thể báo cáo với nhân dân Mỹ và toàn thế giới rằng Hoa-kỳ đã tiến hành cuộc hành quân tiêu diệt Osama bin Laden, lãnh tụ al-Qaeda và là tên khủng bố chịu trách nhiệm về việc giết hàng ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội". "Chúng ta đã ngăn ngừa khủng bố tấn công và củng cố an ninh nội địa của chúng ta. Ở Afghanistan, chúng ta đã loại bỏ chính quyền Taliban vốn đã cho bin Laden và al-Qaeda căn cứ địa an toàn và sự hỗ trợ. Và khắp thế giới, chúng ta đã cùng bạn bè và đồng minh bắt giữ hoặc tiêu diệt một số quân khủng bố al-Qaeda; kể cả vài tên nằm trong âm mưu gây nên vụ 9/11". "Hôm nay, dưới sự chỉ thị của tôi, Hoa-kỳ đã tung ra cuộc hành quân nhắm vào khuôn viên đó ở Abbottabad, Pakistan. Một toán nhỏ người Mỹ đã thi hành cuộc hành quân với lòng can đảm và năng lực tuyệt hảo. Không có thương vong. Họ đã cẩn thận tránh gây thiệt hại cho dân sự. Sau trận nổ súng, họ đã giết Osama bin Laden và bắt giữ xác chết của y". TT Mỹ xem cuộc hành quân này là "thành tựu nổi bật nhất cho tới nay trong nỗ lực của cả nước đánh bại al-Qaeda". Ông ca tụng các anh hùng "vô danh" này và cám ơn đội biệt kích SEAL; nói rằng "Nhân dân Mỹ không chứng kiến việc họ làm; cũng không biết tên họ".
 
Tuy nhiên, hầu hết các anh hùng này chưa kịp giải ngũ về hưu an dưỡng tuổi già bên gia đình thì đã bị đồ đệ của OBL trả thù chỉ vì lời "khoa trương hớ hênh" của người phụ tá Obama - PTT Joseph Biden, kẻ từng bỏ phiếu chống viện trợ cho VNCH với tư cách Nghị Sĩ (D-Delaware) và hôm 14/4/1975 tại White House đã nói với TT Gerald Ford rằng "Tôi sẽ bỏ phiếu bao nhiêu (tiền) cũng được để di tản người Mỹ; nhưng tôi không muốn việc này lẫn lộn với việc di tản người Việt"; và cùng ngày với tuyên bố "không có một xu quân viện nào" của TNS Jacob Javits (D-New York); khiến cựu Thống đốc California Ronald Reagan trong diễn văn tại Georgia Tech gọi đó là "Quốc Hội vô trách nhiệm nhất lịch sử của chúng ta"; và rằng các thành viên QH ấy "tay đã nhuốm máu" (đồng minh) - Hôm 4/5/2011 tại Ritz Carlton Hotel ở Washington DC; sau khi giới thiệu Đô đốc Jim Stavridis chỉ huy trưởng Navy SEALS, Joe Biden đã vui miệng ca tụng đơn vị biệt kích và bật mí danh tánh toán này; khoe rằng kế hoạch bí mật này đã được "chúng tôi" soạn thảo mấy tháng trước; ". . . có đến 16 thành viên Quốc Hội được biết đại cương, thế mà không một chi tiết nào đã bị lộ ra ngoài. Tôi thấy thật tuyệt hảo". Biden còn nói "Jim sẽ kể thêm chi tiết" về "năng lực phi thường, hiện tượng gần như không thể tưởng tượng nổi của Team 6 hôm chủ nhật vừa qua!".
 
Theo kí‎ giả Jeffrey Kuhner của báo Washington Times, một trong 28 viên biệt kích tên Mike Strange đã bảo bà mẹ của đồng đội Aaron Vaughn, bà Karen Vaughn nên "xóa hết những gì liên quan đến toán Team 6 trên Facebook và Twitter để tránh hậu họa" vì Biden đã hớ hênh tiết lộ hôm 4/5; vi phạm điều khoản 18-793 US Code mà hình phạt lên đến 10 năm tù. Mike cũng cho bố mẹ biết anh đã làm di chúc "phòng khi có mệnh hệ gì"!
 
Điều khoản 18-793 US Code ghi rõ: "Bất cứ ai sở hữu hợp pháp, được phép biết, được phép điều khiển hoặc được tín cẩn trao . . . thông tin liên hệ đến quốc phòng mà người sở hữu có lí‎ do tin rằng có thể gây thương tổn cho Hoa-kỳ hoặc làm lợi cho bất cứ quốc gia nào; cố tình liên lạc, trao phó, truyền đạt hoặc khiến được liên lạc, trao phó hay truyền đạt; hoặc mưu toan liên lạc, trao tin, truyền đạt hay khiến được liên lạc, trao tin hay truyền đạt tương tự cho bất cứ kẻ nào không thuộc giới được phép nhận . . . sẽ bị phạt theo luật này hoặc bị tù giam không quá 10 năm, hoặc cả hai". 
 
Chỉ hơn 2 tháng sau, hôm 6/8/2011, bọn khủng bố đã bắn rớt chiếc trực thăng Chinook chở toán Navy SEALS: 30 lính Mỹ tử trận; trong đó có 25 người thuộc Team 6 kể cả Aaron Vaughn và Mike Strange. Taliban lập tức khoe rối rít trên Internet rằng, chúng đã trả thù cho OBL! Bộ QP thanh minh đây không phải là vụ "phục kích có kế hoạch " mà chỉ là vụ bắn sẻ "cầu may" của "một tay súng cấp thấp nào đó trong vùng có mặt đúng chỗ nghe thấy tiếng máy bay"! Tại Dover AFB hôm nhận xác, Charles Strange cha của Mike trực tiếp yêu cầu Obama điều tra vụ này nhưng bị làm lơ. Còn Billy Vaughn, cha của Aaron nói với Fox News rằng "giới truyền thông đã để Joe Biden thoát tội" mà chỉ qui kết đó là "câu nói hớ hênh của bác Joe"; và rằng "ông ta là tư lệnh phó của quốc gia hùng mạnh nhất thế giới; cần phải lãnh trách nhiệm câu nói của mình" chứ "không được thoái thác"! Dân biểu Jason Shaffetz (R-UT) nói có thấy ảnh các thi thể chiến sĩ hy sinh; ít nhất một xác không cháy đen như Bộ QP mô tả; và với hộp đen của máy bay bị mất, ông bảo thật là "awfully odd!".
 
Osama bin Laden, tên khủng bố nổi tiếng nhất của Hồi giáo đã bị tiêu diệt; song chiến thuật kích thích của bọn quân phiệt núp áo "giáo sĩ" hò hét tuyên truyền cho cuộc thánh chiến thứ năm chống nhân loại vẫn tiếp tục. Chiến thuật này được phối hợp với chiến lược đa thê để tạo nhân lực theo cấp số nhân, chiến lược ngu dân để tạo sự cuồng tín và chiến lược cấm phụ nữ đi làm để tự gây bế tắc kinh tế; tạo bùng phát về di dân đến các quốc gia dân chủ và Thiên Chúa giáo để chiếm đất và nằm vùng lập chiến khu. Sự kiện tổ chức Hồi giáo Boko Haram bắt cóc hàng trăm thiếu nữ Thiên Chúa Giáo ở Nigeria để hiếp dâm và buộc cải đạo, sự kiện tổ chức "ISIS" (quốc gia Hồi giáo) tàn sát hàng vạn tín đồ Công giáo và các sắc tộc Yazidis, Kurds ở Syria và Iraq, và sự kiện kí giả Mỹ người Công giáo James Wright Foley bị bọn thánh chiến cuồng tín Hồi giáo chặt đầu man rợ hồi gần đây đã cho thấy chiến thuật và chiến lược "jihad" của bọn quân phiệt Hồi giáo nắm cả 3 cơ chế lập pháp, hành pháp và tư pháp núp dưới danh nghĩa "giáo sĩ" đã tiếp tục nối bước bin Laden; đẩy mạnh cuộc thánh chiến lên tầm mức tàn bạo và khốc liệt hơn…

HÀ BẮC

Tuyên bố của uỷ ban bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ Việt nam

Trong các thập niên qua, Trung Cộng đã dần dần khẳng định chủ quyền của chúng trên Biển Đông (Eastern Sea) của Việt Nam.  Trong năm 1988, Trung Cộng đã phái các lực lượng hải quân của chúng đến xâm chiếm sáu rạng đá ngầm tại Quần Đảo Trường Sa.  Sau đó, Trung Cộng đã xây dựng các kiến trúc kiên cố trên đó để xác định chủ quyền của chúng.  Trong Tháng Sáu 2007, Trung Cộng đã vẽ một bản đồ chữ U bao trùm 80% diện tích Biển Đông, tuyên bố rằng vùng đó thuộc chủ quyền của chúng. Trong Tháng Mười Một 2007, Trung Cộng đà thiết lập Huyện Hoàng Sa tại Đảo Phú Lâm (Woody) thuộc Quần Đảo Hoàng Sa (Paracels) để quản trị các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
 
Đây là một hành vi sát nhập một cách chính thức quần đảo này vào lãnh thổ của Trung Cộng.
 
Trước sự vi phạm trắng trợn vào lãnh hải của Việt Nam bởi Trung Cộng, các lãnh đạo ĐCSVN (VC) đã tỏ ra không mấy quan tâm đến sự bảo vệ lãnh thổ quốc gia của họ.  Không hành động tích cực nào đã được đưa ra để phòng vệ lãnh thổ.  Ngược lại, họ đã động viên toàn thể guồng máy chính quyền [bao gồm cảnh sát, tòa án, nhà tù, nhân viên quân sự, với sự hỗ trợ của các chi bộ đảng địa phương] để đàn áp các sự phản đối của các sinh viên đã biểu tình trên các đường phố Hà Nội và Sàigòn để chống lại sự xâm lăng của Trung Cộng                                                
Lãnh đạo VC càng nhượng bộ  nhiểu đối với lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc (TC) , thì Trung Cộng lại càng gia tăng nhiều hơn nữa các hoạt động để khẳng định các yêu sách về chủ quyền của chúng trên Biển Đông. Trong Tháng Năm 2014 vừa qua, Hệ Thống Căn Cứ Hải Quân Trung Cộng (HTCCHQTC) đã được thiết lập như một bước tiến hơn nữa nhằm đạt được mục đích của của chúng: làm chủ thực sự và duy nhất toàn thể  vùng biển này.
 
I. ÂM MƯU BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG CỘNG
 
Đầu Tháng Năm 2014, truyền thông quốc tế loan truyền tin tức cảnh báo rằng Trung Cộng đang xây cất một hòn đảo nhân tạo khổng lồ trên Rạng Đá Ngầm Gạc Ma (Johnson South Reef: JSR) để biến cải toàn thể khu vực thành một căn cứ hải quân, nhằm kiểm soát hải phận Á Châu này.
 
Đảo Đá Ngầm Gạc Ma là của Việt Nam.  Trong Tháng Ba 1988, Trung Cộng đã phái bốn khu trục hạm thuộc lực lượng hải quân của chúng tại đảo Hải Nam đến chiếm đoạt đảo này, hạ sát khoảng 64 binh sĩ cộng sản Việt Nam không vũ trang trong khi đang bơi và chuyển vận đồ tiếp tế cho các chiến hữu của họ đồn trú tại đó để phòng thủ rạng đá ngầm này.  Điều đáng nói là sau khi sử dụng các vũ khí hạng nặng để tấn công các người đang bơi lội, lính Trung Cộng đã đến nơi trên các tàu PT, tìm kiếm các người vẫn còn sống sót để giết họ bằng súng nhỏ.
 
Rạng Gạc Ma cấu thành bởi san hô, nằm ở chóp đỉnh của chuỗi Sinh Tồn về phía Tây Nam, và là một trong sáu đảo đá ngầm mà Trung Cộng đã cướp đoạt của Việt Nam hôm 14 Tháng Ba.
 
Khu vực này tọa lạc phía nam của Quần Đảo Trường Sa.
 
Vào ngày 5 Tháng Năm 2014, Hoàn Cầu Thời Báo (Global Times) của Trung Cộng. tiết lộ (một cách nửa bí mật) rằng Trung Cộng ‘đã tạo lập một hòn đảo nhân tạo “có thể là Đảo Gạc Ma” thuộc Quần Đảo Trường Sa, trên đó có một phi trường hải quân và một hải cảng để tiếp nhận các tàu của Trung Cộng, sẽ được sử dụng để “đáp ứng mau lẹ trong trường hợp chiến tranh”.  Sau đó, một cơ quan truyền thông khác tại Trung Cộng có nói rằng đảo Gạc Ma  chỉ là một trạm cung cấp đồ tiếp liệu cho các ngư phủ mà thôi.  Các văn phòng, nhà nghỉ, và các nông trại cùng một hải cảng đủ lớn để phục vụ cho các tàu có trọng tải đến 5,000 tấn cũng sẽ được xây dựng.
 
Vào ngày 7 Tháng Sáu, 2014, từ South China Morning Post (SCMP) có tường thuật rằng Trung Cộng đã biến đảo Gạc Ma thành một đảo nhân tạo vĩ đại.  Trên đó, phi trường hải quân, các hải cảng riêng biệt cho các tàu quân sự và dân sự sẽ được xây dựng.  Các nhà ở cho thường dân, các cơ sở du lịch cũng được dự trù.  Các tàu nạo vét đang hút cát từ đáy biển cho mục đích đó.
 
Vào ngày 13 Tháng Năm, 2014, Bộ Ngoại Giao Phi Luật Tân đã tố giác rằng Trung Cộng đang xây cất một đảo nhân tạo mang tên JSR, gồm cả một phi trường quân sự.
 
Trả lời sự tố giác của Phi Luật Tân, vào ngày 15 Tháng Năm 2014, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Cộng, Hoa Xuân Oánh tại Bắc Kinh đã tuyên bố rằng Trung Cộng “có chủ quyền không tranh cãi trên vùng này, kể cả Rạng San Hô Gạc Ma”; vì thế, chúng “có quyền xây dựng bất kỳ điều gì mà chúng muốn làm”. 
***
 
Trung Cộng đã xây dựng một đảo nhân tạo khác tại khu vực Rạng San Hô Chữ Thập (Fiery Cross Reef: FCR).  Rạng San Hô Chữ Thập ở phía Tây của Đảo Gạc Ma.  Vào ngày 6 Tháng Một 2015, Tướng Gregorio Catapang Jr., Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Phi Luật Tân tuyên bố: “Khoảng 50% hòn đảo nhân tạo đã được hoàn tất … Nó được xây cất trên rạng san hô [FCR] mà Trung Cộng đã chiếm đoạt của Việt Nam hồi năm 1988 … Đây là một điều quan ngại nghiêm trọng, bởi nó có thể được sử dụng cho một mục đích khác hơn hòa bình …”
 
Một trang mạng Phi Luật tân có tên Rappler hôm 6 Tháng Một, 2015 đã trích dẫn một nguồn tin từ quân đội Phi Luật Tân nói rằng phi đạo được xây dựng trên đảo Chữ Thập dài 2000 mét và sẽ được hoàn tất vào cuối năm.
 
Trong Tháng Mười Một 2014, Tạp Chí HIS Jane Review có công bố một hình chụp bằng vệ tinh cho thấy một phi đạo và một hải cảng trên hòn đảo đang khai hoang có chiều dài 3 cây số và chiều ngang 300 mét.
 
Đối với một chuyên viên quân sự Phi Luật Tân, không còn gì để nghi ngờ rằng phi đạo sẽ được sử dụng cho các máy bay phản lực quân sự Trung Cộng trợ giúp vào việc đặt toàn vùng dưới sự kiểm soát của Trung Cộng, trong khi hải cảng sẽ để tiếp nhận các tàu tiếp tế và các tàu khác giúp Trung Cộng thực hiện các kế hoạch bành trướng của chúng.
 
Các đảo nhân tạo JSR và FCR trong HTCCHQ đã được thành hình để đáp ứng các nhu cầu của Trung Cộng muốn bành trướng lãnh thổ xuống phía Nam.
 
Vì căn cứ hải quân Trung Cộng đã được thiết lập trên đảo Phú Lâm thuộc Quần Đảo Hoàng Sa  dùng làm bộ chỉ huy cho toàn vùng có các hạn chế và không thể đảm đương trách vụ như Trung Cộng nhắm đến, nên  Trung Cộng cần xây dựng các căn cứ hải quân xa hơn về phía nam.
Căn cư Phú Lâm
V8n Phòng Bộ Chỉ Huy, Căn Cứ Phú Lâm
 
Kết quả, sáu rạng đá ngầm mà Trung Cộng chiếm đoạt của Việt Nam năm 1988 là sự lựa chọn của chúng.
Hạn Chế 1: Khoảng cách từ đảo Phú Lâm đến JSR là 800 cây số.  Và khoảng cách giữa đảo Phú Lâm và Barque Canada (đảo Thuyền Chài) nằm ở điểm cực nam của Quần Đảo Trường Sa tại vĩ tuyến thứ 3 là 1,780 cây số.  Do đó, Trung Cộng không thể kiểm soát hải phận khối ASEAN và xa hơn về phía Nam.
 
Hạn Chế 2; Kích thước của đảo Phú Lâm thì quá nhỏ để sử dụng làm một căn cứ hải quân. Diện tích đảo Phú Lâm từ 1.3 đến 2 cây số vuông, trong khi căn cứ JSR vĩ đại sau khi hoàn tất sẽ lớn hơn căn cứ hải quân Hoa Kỳ Diego Marcia tại Ấn Độ Dương.
 
Hạn Chế 3: Các tham vọng của Trung Cộng rất lớn.  Ý đồ của chúng là muốn sáp nhập toàn thể Á Châu vào lãnh thổ của nó.  Chinh phục Á Châu chỉ là một bước tiến trước khi di chuyển đến Phi Châu và các châu lục khác.  Vì thế cần đến một căn cứ lớn hơn.
 
Sau khi căn cứ JSR được nối liền với Đảo Chữ Thập đang được xây cất và với các đảo khác, hệ thống căn cứ sẽ trở thành một chuỗi các tiền đồn kiên cố trải dài trên 44 cây số.
 
Vào lúc này, 3 hay 4 kiến trúc kiên cố đã được xây dựng  từ trước trên Rạng Vành Khăn (Mischiefs) ở về phía Đông của JSR.  Trong số đó, một số kiến trúc được nhìn thấy lớn như một khách sạn đồ sộ được dựng lên từ mặt biển.  Chuỗi các tiền đồn kiên cố sẽ hỗ trợ cho các kiến trúc trên Rạng đá ngầm Vành Khăn để kiểm soát các tuyến hàng hải, đặc biệt để theo dõi các tàu quân sự thuộc Hạm Đội số 7 của Hoa Kỳ di chuyển từ Ấn Độ Dương xuyên qua Eo Biển Malacca đến vùng Đông Á dọc theo bờ biển phía Tây của Phi Luật Tân (Xem các hình tại Phần III bên dười đây).   
 
HTCCHQ được hợp thành bởi 5 bãi đá  đặt trên các rạng đá ngầm kể sau: Bãi Đá Châu Viên (Cuarteron), lên Bãi Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) lên Subi, xuống Én Đất (Eldad), rồi chạy ngang xuống Bãi đá Vành Khăn ( Mischiefs). 
 
Trung cộng bồi đắp các đảo đá ngầm này thành các đảo nhân tạo trên đó  TC xây dựng các cơ sớ  hải quân  như phi trường, hải cảng, trung tâm truyền tin, kho chứa, doanh trại và văn phòng  quân đội…. Hệ thống  căn cứ rộng lớn có chiếu cao Bắc Nam là khoảng 80 hải lý và chiều Đông Tây chừng 160 hải lý. TC cũng xây dựng một số căn cứ  quân sự trên các đảo nhân tạo  từ các bãi đá ngầm trong chuỗi đảo  Quần Tụ {Union Banks} nằm trong  chu vi  do 5 đảo kể trên hợp thành.
 
CHUỖI ĐẢO QUẦN TỤ:
 Đá Gạc Ma (Johnson South Reef):  09’ 43’ N 114’ 17’ E; Đá Cô lin (Johnson North or Collins Reef): 09’45’ N  114’ 14 E; Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island): 09’51’ N  114’ 22’ E; Đá Chigua (or Ken nan Reef: 09’55’N 114’29’E; Đá Tư Nghĩa (Hughes Reef): 09’55’ N 114’ 30’ E; Đảo Sinh Tồn Đông (Sin Cowe East Island): 09’55’N  114’33’E. Đá Len Đảo (Lensdowne Reef): 09’46’N 114’22’E.

CÁC HOẠT ĐỘNG CẢI TẠO CỦA TRUNG CỘNG TRÊN NĂM BÃI ĐÁ CHIẾM ĐOẠT CỦA VIỆT NAM
Ít nhất, tàu nạo vét Tian Jiang Hao, Nina Hai Tao và một tàu vét thư ba đã hoạt động từ Tháng Chín 2013 đến Tháng Sáu 2014 giữa 5 rạng dá ngầm kể trên, được hộ tống bởi tàu chiến thuộc hạng Miên Dương, có trang bị các hỏa tiễn và các khí giới khác kể cả một tàu đổ bộ để bảo vệ.
 
Cuateron Reef: 9-28 Tháng Chín 2013; 4-8 Tháng Ba 2014; 10 Tháng Tư đến 22 Tháng Năm 2014; Union Reefs South: 17 Tháng Mười Hai 2013 đến 3 Tháng Ba 2014; Union Reefs North: 20 Tháng Ba đến 3 Tháng Tư 2014; Fiery Cross Reef: 7-14 Tháng Mười Hai 2013 và 9-17 Tháng Ba 2014; Gaven Reefs: 24 Tháng Năm đến 15 Tháng Sáu 2014
 
Tian Jiang Hao, tàu nạo vét khổng lồ của Trung Cộng, dài 127 mét.  Nó có khả năng thực hiện việc hút cát từ biển nước sâu.  Nó có thể hút 4,500 tấn cát mỗi giờ.  Tian Jiang Hao là chiếc lớn nhất trong ba chiếc tàu nạo vét hoạt động trong khu vực.
Hình một tàu khác, hạng Giang Vệ, được trang bị các hỏa tiễn để bảo vệ cho sự xây cất, với các tàu đổ bộ để tiếp tế có hiện diện tại các địa điểm xây cất.

CÁC ĐE DỌA ĐẶT RA BỞI HTCCHQ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ASEAN VÀ THẾ GIỚI
 
Rolio Golez, nguyên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Phi Luật Tân đã cảnh cáo rằng căn cứ quân sự mà Trung Cộng đang xây dựng trên đảo JSR sẽ là một mối đe dọa lớn lao đối với các nước Á Châu và Thái Bình Dương.  Vào hôm 6 Tháng Mười 2014, Băng Tần ANC của Truyền Hình Phi Luật Tân cho thấy rằng toàn thể Đông Nam Á sẽ gặp nguy hiểm sau khi Chính Quyền Cộng Sản Trung Quốc hoàn tất sự xây dựng trái phép căn cứ quân sự trên đảo JSR tại Quần Đảo Trường Sa với một phi đạo.  Đảo JSR thuộc về Việt Nam.
 
Ông Golez đã xác nhận rằng Chính Quyền Trung Cộng muốn thay đổi cán cân quyền lực tại Đông Nam Á xuyên qua sự xây dựng căn cứ hải quân mới.  “Chính Quyền Trung Cộng muốn củng cố quyền lực của chúng tại Biển Nam Trung Hoa và biến nó thành hồ nước của riêng chúng.  Chúng khẳng định rằng chúng sở hữu lãnh hải hình chữ U mà chúng tự đã vẽ ra trong năm 2007.  Chúng muốn sự thay đổi quyền lực, bởi vì Hoa Kỳ đang đóng một vai trò chế ngự ở đó.  Trung Cộng bắt đầu thách đố vị thế của Hoa Kỳ …
 
“Căn cứ quân sự JSR sẽ được dùng để tái tiếp tế và hỗ trợ cho các khu trục hạm của chúng.  Ngoài ra, người ta có thể nhìn thấy một phi đạo với chiều dài 1.6 cây số.  Điều này rất nguy hiểm bởi đây là một căn cứ cho các máy bay quân sự, chẳng hạn như máy bay J-11 của Trung Cộng có tầm hoạt động xa tới 3,200 cây số.  Đảo JSR là một trung tâm điểm và đường kính của khu vực lớn hơn 1,600 cây số.  Chính vì thế các nước láng giêng tại Á Châu đều nằm trong tầm hoạt động của chúng.  Do đó, tất cả các căn cứ quân sự của chúng tôi sẽ bị đe dọa”.
 
Cựu Đại Sứ của Phi Luật Tân, Paranaque, đã ghi nhận rằng khi căn cứ quân sự  ấy được hoàn tất, các máy bay phản lực của Trung Cộng sẽ dễ dàng tiếp cận đến Phi Luật Tân, Việt Nam và một phần của Mã Lai nằm trong phạm vi 1000 dặm.
 
Về đảo nhân tạo FCR, phi đạo của nó sẽ giúp cho các phản lực cơ Trung Cộng kiểm soát toàn vùng trong khi hải cảng của chúng sẽ trở thành bến đỗ cho các tàu tiếp vận và các tàu khác.
 
II. CHÍNH SÁCH BÀNH TRƯỚNG CỦA TRUNG CỘNG VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
 
Trong vài thập niên qua, yêu sách của Trung Cộng tại khu vực tranh chấp ngày càng khẳng quyết hơn: từ chối không cho các ngư phủ Việt Nam sinh hoạt tại các biển truyền thống của họ bằng cách “hạ sát, bắt giữ và cầm tù vì  lý do vi phạm vào hải phận Trung Cộng”; các tàu hải quân Trung Cộng đánh đắm thuyền của họ; các tàu hải giám Trung Cộng cắt đứt dây cáp của các tàu khảo sát địa chấn trên thềm lục địa Việt Nam; tạo áp lực trên nhà chức trách Việt Nam phải bắt giữ và giam cầm các sinh viên kêu gọi bảo vệ các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay những người phản đối lại các hoạt động của Trung Cộng trong sự khẳng định chủ quyền trên các đảo …; đe dọa và đòi hỏi các tổ hợp dầu hỏa ngoại quốc đang khai thác dầu hỏa tại hải phận Việt Nam phải rời đi….
 
Vào hôm 1 Tháng Năm 2014, Trung Cộng đã đi đến việc có một hành động mạnh bạo hơn: bất ngờ hạ đặt dàn khoan dầu khổng lồ HD 981 trên thềm lục địa của Việt Nam để thăm dò.  Dàn Khoan Dầu được hộ tống bởi một ham đội ban đầu vào khoảng 90 tàu mọi loại kể cả các chiến thuyền được trang bị các hỏa tiễn, một số tàu hải giám, tàu tuần cảnh biển … và về sau số lượng các tàu gia tăng lên tới 135 chiếc.  Khi dàn khoan xâm nhập, phía Trung Cộng đã đưa ra các cảnh cáo cho cảnh sát biển Việt Nam phải rời khỏi khu vực và giới hạn là 3 dậm tính từ dàn khoan.  Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc Phòng tức thời đáp ứng các yêu cầu của Trung Cộng, đã ra lệnh cho các đơn vị cảnh sát biển triệt thoái khỏi địa điểm.  Các tàu cảnh sát Việt Nam khi đó chỉ hoạt động cách xa dàn khoan và canh chừng.  Tuy nhiên một số tàu của họ bị đánh đắm bởi các tàu Trung Cộng mặc dù họ đã ở cách xa khoảng 10 dặm.  Các tàu khác đã bị tổn hại khi bị đâm húc bởi các tàu Trung Cộng.  Tổng số tổn thất là 24 chiếc tàu.  Một số nhân viên của lục lượng cảnh sát biển bị giết chết, và các người khác bị thương.
 
Trung Cộng tuyên bố rằng dàn khoan hoạt động trong hải phận.của chúng.
 
Đây là một sự khiêu khích và xâm lăng thực sự bằng vũ lực.
 
Về phía Việt Nam, không biện pháp cụ thể tích cục nào được thực hiện để phòng vệ lãnh thổ.  Phẫn nộ trước sự bất động của chính phủ chống lại quân ngoại xâm, và cũng lo sợ về các sự nhượng bộ lãnh thổ hơn nữa được trao cho Trung Cộng như đã xảy ra trong quá khứ, vào khoảng năm mươi nghìn người Việt Nam đã tụ tập tại Bình Dương trong một vụ phản đối chống quân xâm lược.  Một số cơ xưởng sở hữu bởi Trung Cộng bị đốt cháy và hủy hoại.  Tại Hà Tĩnh, các người phản đối trở nên bạo động.  Hai công nhân Trung Cộng đã bị giết chết, và bốn người bị thương.
 
Sự kiện Trung Cộng di chuyển dàn khoan vào hải phận Việt Nam đã đặt giới lãnh đạo ĐCSVN vào một vị thế khó xử: một mặt, họ không thể đối kháng lại đòi hỏi của nhân dân Việt Nam nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia chống lại quân xâm lược; mặt khác, họ nằm dưới áp lực nặng nề từ Trung Quốc để đưa ra các sự nhượng bộ hơn nữa bằng việc chấp nhận sự kiện rằng dàn khoan HD 981 hoạt động tại hải phận mà Trung Cộng tuyên bố là của chúng.  Dưới tình huống này, điều quan trọng nhất cho các lãnh đạo ĐCSVN là phải tìm cách để làm giảm bớt tình hình sôi sục bên trong Việt Nam.
 
Vào ngày 11 Tháng Năm, tại một phiên họp của khối ASEAN ở Miến Điện, Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng đã tố cáo rằng hành động của Trung Cộng cấu thành một mối nguy hiểm to lớn cho sự an toàn và quyền tự do lưu thông hàng hải xuyên qua Biển Nam Trung Hoa.  Vào ngày 21 Tháng Năm, 2014, ông ta đến Manila.  Ông đã nói về một biện pháp pháp lý với Tổng Thống Phi Luật Tân Aquino là kẻ đã nạp đơn kiện Trung Cộng vì các sự vi phạm đến hải phận của Phi Luật Tân.  Cuộc thảo luận được phổ biến sâu rộng bởi truyền thông Việt Nam khiến cho dân chúng nghĩ rằng ông Dũng đang cứu xét đến một hành động pháp lý nhằm chặn đứng sự xâm lăng của Trung Cộng.  Nhưng thực sự không phải như vậỵ.  Đây chỉ là một loại chiến thuật cũ kỳ mà ông ta đà sử dụng để tạm thời xoa dịu căng thẳng bên trong nước.
 
Tại sao các lãnh đạo ĐCSVN lại chấp nhận một chính sách thỏa hiệp trước đòi hỏi qu1a mức của Trung Cộng về lãnh thổ, thay vì tìm cách để phòng vệ?  Tại sao họ đã giữ im lặng và giả vờ không hay biết bất kỳ điều gì về sự kiện rằng từ năm 2013, Trung Cộng đã công khai xây dựng một đảo nhân tạo trên Rạng Đá Ngầm JSR với các tàu nạo vét khổng lồ di chuyển qua lại trong một thời khoảng lâu dài ở Quần Đảo Trường Sa, trong khi chính phủ Phi Luật Tân đã lên tiếng chống lại chính sách bành trướng của Trung Cộng xâm phạm lãnh hải Việt nam?
 
Câu trả lời sẽ như sau:
 
Trở lùi về Tháng Tư 2011, Tướng Quách Bá Hùng, phó chủ tịch Quân Ủy Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Cộng (ĐCSTC), đến Hà Nội và gặp gỡ các lành đạo ĐCSVN: Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ Tịch Nước Nguyễn minh Triết … Các lãnh đạo hai đảng đã đồng ý trên một số nguyên tắc theo đó hai bên sử dụng để “giải quyết các vấn đề tranh chấp” liên quan đến Biển Nam Trung Hoa;
 
1) Tham khảo thân hữu và song phương để tìm một giải pháp cho sự xung đột;
 
2) Không để bất kỳ nước thứ ba nào can thiệp vào việc giải quyết các vấn đề Quần Đảo Trường Sa;
 
3) Hướng dẫn công luận và cảnh giác không đưa ra những lời phát biểu hay có bất kỳ hành động nào có thể dẫn đến việc làm tổn hại tình hữu nghị hay làm mất lòng tín nhiệm của dân chúng hai nước.
 
Trong Tháng Mười cùng năm, các điểm này đã được phê chuẩn một cách chính thức vào một Hiệp Ước có tên là “Thỏa Thuận Hỗ Tương Về Giải Pháp Cho Các Sự Tranh Chấp Tại Biển Nam Trung Hoa” được ký kết bởi Hồ Xuân Sơn, Thứ Trưởng Ngoại Giao Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và đối nhiệm Trung Cộng là Cui Tiankhai (Thôi Thiên Khải) dưới sự “giám sát” của Đới Bỉnh Quốc, Phó Thủ Tướng Trung Cộng phụ trách ngoại giao.
 
Tinh thần của Bản Thỏa Thuận cho thấy rằng ĐCSVN và ĐCSTC không ở thế bình đẳng với nhau.  Nó trông giống như một mối quan hệ giữa một “ông chú” và một “đầy tớ”, hay mối quan hệ giữa một Đế Triều và một nước chư hầu thời phong kiến.
 
Trong bản Thỏa Thuận, chỉ có mệnh lệnh một chiều từ Trung Cộng, và Việt Cộng phải thi hành nó, mà không có cả quyền được phàn nàn hay khiếu nại.
 
Trung Cộng đã hạ đặt dàn khoan HD 981 trong hải phận Việt Nam ngoài khơi Quảng Ngãi, nhưng lại tuyên bố vùng này là hải phận của Trung Cộng.  Dĩ nhiên, Việt Cộng đã không được tham khảo trước về việc đó.  Cũng thế, sau khi dàn khoan đã được hạ đặt và dưới áp lực của dân chúng Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng đã xin gặp Tập Cận Bình, lời yêu cầu của ông ta bị cự tuyệt.  Sự xây dựng 14 dự án trên năm rạng đá ngầm tại Quần Đảo Trường Sa chiếm đoạt từ Việt Nam đã diễn tiến trong hơn hai năm, có lẽ không có sự ưng thuận của ĐCSVN, và lãnh đạo Đảng này không dám lên tiếng phản đôi.  Theo Bản Thỏa Thuận, phía Trung Cộng có mọi đặc ưu quyền và quyền hạn, mà không có bổn phận nào trong khi Việt Nam không được phép, hay bị cấm khiếu nại: “Việt Nam không thể và vì thế không dám đưa ra các lời tuyên bố có thể làm mất sự tín cậy của Trung Cộng”.
 
Trung Cộng đã nghĩ rằng các lãnh đạo ĐCSVN bị ràng buộc chặt chẽ bởi bản thỏa thuận, và rằng trong những năm trước, VC đã hăng hái thực hiện những gì mà tự họ đã cam kết và rằng họ có thể kiểm soát một cách thành công tình hình bên trong cùng như bên ngoài Việt Nam.
 
Trong thực tế, bên trong nước, công luận đã bị kiểm soát một cách chặt chẽ bởi ĐCSVN để thỏa mãn các đòi hỏi của Bắc Kinh.  Các kỳ thuật Leninist đã được sử dụng trọn vẹn để đập tan sự chống đối của dân chúng đối với Trung Cộng.  Các người phản đối tích cực và mạnh mẽ chống lại Trung Cộng trong động tác khẳng định chủ quyền của chúng đã bị hoặc cô lập hay giam cầm.  Phần lớn họ bị đối xử một cách thô bạo hay dữ tợn.
 
Hình một sinh viên phản đối xâm lược Trung Cộng tại Sàigòn bị trấn áp theo kỹ thuật Leninist bởi một cảnh sát mặc thường phục
 
Các tiếng nói kêu gọi sự bảo vệ các Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị bóp nghẹt.  Ngay cả các kẻ cầm một bích chương với khẩu hiệu “Hoàng Sa & Trường Là Của Việt Nam” cũng bị bỏ tù.  Việt Khang, một nhạc sĩ trẻ, người chỉ sáng tác một bài ca ngắn chống Trung Cộng đã bị bắt 3 năm trước đây và cho đến nay không ai hay biết nơi giam giữ anh ta ở đâu.
 
Các lãnh đạo ĐCSVN đã huy động thành công toàn thể guồng máy chính quyền với sự hỗ trợ của các tổ đảng địa phương (cảnh sát, tòa án, nhà tù, tổ đảng địa phương, nhân viên quân sự) nhân danh duy trì “trật tự công cộng” để trấn áp dân chúng như được quy định trong bản Thỏa Thuận.
 
Trên bình diện quốc tế, các lãnh đạo ĐCSVN đã không đưa ra bất kỳ lời tuyên bố nào hay có bất kỳ hành động nào có thể “làm tổn hại đến tình hữu nghị với Trung Cộng”: không bình luận/ý kiến/hành động nào có thể gây tổn hại cho nó.  Các ngư phủ của Việt Nam liên tục bị quấy phá một cách thô bạo.  Một số trọng họ bị giết chết.  Nhiều người khác bị bắt giữ và giam cầm vì các sự vi phạm vào ‘hải phận Trung Cộng’ mặc dù họ đang hoạt động trong hải phận Việt Nam.  Trong nhiều trường hợp, ngư thuyền của họ bị đâm húc và đánh đắm bởi tàu Hải Quân Trung Cộng.  Truyền thông đại chúng chính thức của ĐCSVN chỉ dám nói rằng “tàu lạ” đã gây ra việc đó.  Họ không dám chỉ danh các tàu hải quân Trung Cộng, mặc dù các nạn nhân đều hay biết căn cước của các tàu ấy.  Tất cả “các tàu lạ” rời bỏ hiện trường mà không hề cứu vớt các nạn nhân trên tàu.  Vì thế, không nước nào có thể quy trách Trung Cộng về các hành vi bất hợp pháp và vô nhân đạo của chúng.  Cũng vậy, tuân hành bản Thỏa Thuận, CHXHCNVN đã không có hành động pháp lý chống lại dàn khoan HD 981 “mặc dù nó hoạt động một cách bất hợp pháp trong hải phận Việt Nam”.  Hay, ĐCSVN giữ im lặng trong khi Hải Quân ĐCSTC xây dựng các đảo nhân tạo tại Quần Đảo Trường Sa.

Trung Cộng cảm thấy thỏa mãn với những gì ĐCSVN đã làm.
 
Tin tưởng nơi các kết quả thỏa đáng mà các lãnh đạo ĐCSVN đã làm trong việc thi hành các bổn phận được quy định trong bản Thỏa Thuận Hỗ Tương, Trung Cộng đã bước một bước tiến bạo dạn hơn đến việc khẳng định chủ quyền của chúng trên Biển Đông: hạ đặt dàn khoan HD 981 trong hải phận Việt Nam hồi Tháng Năm 2014.  Nếu việc này thành công, toàn thể Biển Nam Trung Hoa mau chóng trở thành lãnh thổ Trung Cộng.
***
Sự kiện các lời tuyên bố của Nguyễn Tấn Dùng tại Miến Điện và Manila trái ngược với Bản Thỏa Thuận Tháng Mười 2011, khiến ĐCSTC nghĩ rằng các lãnh đạo ĐCSVN đã cố gắng tìm cách thoát khỏi sự kiểm soát của chúng.
 
Những gì mà họ Dương nói với Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Nuyễn minh Triết không được tiết lộ.  Tuy nhiên, hai ngày sau đó khi y ta trở về Bắc Kinh, truyền thông TC tường thuật rằng y đã chỉ trích một cách thẳng thừng các lãnh đạo ĐCSVN về việc không tuân thủ các nguyên tắc trong bản thỏa thuận mà cả hai bộ ngoại giao đã ký kết hồi Tháng Mười 2011.
 
Có một điều cũng được truyền thông Trung Cộng tường thuật rằng họ Dương có nói với rằng y ta đã đến Hà Nội để mang “các đứa con hoang đàng trở về với cha mẹ đang khổ đau”, và rằng các lành đạo ĐCSVN phải thi hành đầy đủ bốn KHÔNG:
 
1) Không được đánh giá thấp sự quyết tâm vững chắc của Trung Cộng và các khả năng của TC để bảo vệ chủ quyền trên Quần Đảo Trường Sa (dĩ nhiên bằng vũ lực).
 
2) Không sử dụng các tài liệu hay dữ kiện mà Việt Nam tuyên bố là các tài liệu lịch sử để khẳng định chủ quyền “lịch sứ” trên Quần Đảo Trường Sa.  Nếu làm như thế, nó sẽ tạo ra một sự hiểu lầm đối với cộng đồng thế giới cùng như đối với nhân dân Việt Nam về vấn đề này.
 
3) Không mang bất kỳ nước thứ ba nào can thiệp vào vấn đề này.
 
4) Không đi chệch hướng khỏi mối tình hữu nghị mãi mài tốt đẹp với Trung Cộng.

Thật là một sự sỉ nhục!
 
Một cách đáng ngạc nghiên, bốn KHÔNG mà họ Dương đã nói với các lãnh đạo ĐCSVN phải làm đã được tôn trọng nghiêm ngặt.  Kể từ đó, mục đích của Trung Cộng là các lãnh đạo ĐCSVN cố gắng kéo dài vấn đề càng lâu càng tốt, sao cho Trung Cộng có đủ thời gian để hoàn thành các dự án xây dựng Hệ Thống Căn Cứ Hải Quân của họ một cách êm thắm và thành công để Biển Đông trở thành ‘ao nhà’ của TC.
***
Tóm lại, không có gì gây ngạc nhiên rằng các lãnh đạo ĐCSVN đà cố gắng tuân hành các cam kết nêu trên mà họ đã đưa ra theo Bản Thỏa Thuận Tháng Mười 2011.  Đây là một hành vi thông đồng về phía các nhà lãnh đạo ĐCSVN trong ý đồ bành trướng của Trung Cộng tại Biển Nam Trung Hoa.  Là chủ Biển Đông mà họ giữ im lặng, hay không có bất kỳ hành động nào, chẳng hạn như kêu gọi sự giúp đỡ của quốc tế trong khi quân xâm lược hùng mạnh đang vội vã đẩy nhanh sự xây dựng hệ thống căn cứ, vì thế không nước nào có thể can thiệp.  Khi căn cứ trở thành một “sự đã rồi”, không ai có thể đảo ngược được tình thế.
 
Không còn gì nghi ngờ rằng JSR, FCR và các đảo nhân tạo khác trong hệ thống HTCCHQ sẽ được hoàn tất trong ít năm.  Khi đó nó trở thành các cứ địa cho các tàu chiến, các phản lực cơ, kho vũ khí của Trung Cộng … Một khi các toán quân và trang thiết bị của Trung Cộng được bố trí tại đó, các lãnh đạo ĐCSVN sẽ được TC bảo hãy rút quân ra khỏi các hòn đảo và các rạng san hô và chuyển giao chúng cho Trung Cộng. Các lãnh đạo ĐCSVN sẽ không dám làm như thế bởi họ sẽ bị quy trách về tội “bán Biển Đông cho quân ngoại xâm”.  Và họ sẽ  áp dụng cùng phương pháp như năm 1988 là để Hải quân TC đến vây và giết quân sĩ  đồn trú trên các đảo  ấy với nhiệm vụ bảo vệ “tổ quốc”. Sau khi TC chiếm các đảo ấy, VC sẽ cho truyền thông của đảng nói đến ‘trận đánh’ nhau với quân TC, như vụ 1988 để che dấu tội phạm.
 
Các rạng đá ngầm nằm trong phạm vi hay gần chu vi HTCCHQ là Rạng Nam Yết (Namyit Reef), Đảo Sinh Tồn (Sin Cove Island), Đảo Trường Sa (Spratly Island), Đá Tây (West Reef), Cô Lin (Johnson North), Len Đảo (Lensdowne)….. sẽ là muc tiêu của TC. Binh lính VC đóng trên các đảo ấy không biết là họ là nạn nhân, hy sinh tính mạng của họ để bảo vệ  quyền lợi của lãnh đạo Đảng CSVN mà TC ban cấp cho chúng.
 
Đây là cách ĐCSVN chuyển giao quyền sở hữu chủ Quần Đảo Trường Sa cho Trung Cộng.  Sau khi thuộc về Trung Cộng, HTCCHQ khi đó sẽ là một mối nguy hiểm nghiêm trọng cho an ninh của tất cả các nước tại Đông Nam Á và kế đó đối với mọi nước khác trên thế giới.
 
Trước tiên, âm mưu của Trung Cộng sẽ vô hiệu hóa một cách trực tiếp lời kêu gọi quyền tự do lưu thông hàng hải và hàng không được đưa ra bởi Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert Gates 4 năm trước đây tại Shangri-La.  Bộ Trưởng Gates cũng đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ bảo vệ chúng bằng vũ lực.  Các tàu và máy bay của Mỹ giờ đây không thể tiền vào hay đi ngang qua Biển Đông hay Biển Nam Trung Hoa đến vùng Đông Bắc của Á Châu từ Eo Biển Malacca nếu không có sự cho phép của Trung Cộng bởi nó là “hải phận của Trung Cộng”.  Và quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ tại Biển Đông được tuyên bố bởi Bộ Trưởng Ngoại Giao  Hilary Clinton vào cùng lúc ở Hà Nội, sẽ bị nguy hại.
 
Thứ nhì, an ninh của tất cả các nước Đông Nam Á sẽ bị đe dọa một cách nghiêm trọng.
 
Với Hoa Kỳ, trị giá hàng hóa xuyên qua Malacca đến Biển Đông trong năm 2010 là 1,300 tỷ Mỹ Kim.  Các quyền lợi kinh tế của Hoa Kỳ sẽ gặp khó khăn.  
 
Tổng trị giá của tất cả các nước cộng lại là 5,000 tỷ. Do đó, nhiều cường quốc khác bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
 
III. HÌNH ẢNH VÀ CHÚ GIẢI BẢN ĐỒ
 
1) GAVEN REEF, Bãi Đá Gaven , đang xây dựng.
 
Theo dữ liệu của AISLive data, một tàu nạo vét đã ở tại Geven Reef từ 24 Tháng Năm 2014.. Điều này tương hợp với sự trần thuyết căn bản bởi viên chức Phi Luật Tân, kẻ đã nói với tạp chí HIS Jane’s rằng ba tàu nạo vét – gồm Tian Jing Hao và một tàu khác có tên là Nina Hai Tuo – đã hiện diện tại Gaven Reef cùng với một tàu kéo lớn.
 
Đây là đồ án mẫu của Chinese Government Institute (CGI)  xây dựng trên đảo nhân tạo, cho thấy một phi đạo, các nhà ga cho các phản lực cơ bay nhanh, một hải cảng, các máy quạt gió, và các nhà kiếng. [Nguồn: (China State Shipbuilding Corporation), James Hardy, London and Krispen Atkinson & Richard Hurley, London and Michael Cohen, Manila – HIS Jane’s Defence Weekly, 20 June 2014)]
 
2) JOHNSON SOUTH REEF, Bãi đá Gạc Ma
 
Một hải cảng có thể phục vụ các tàu trọng tải đến 5,000 tấn, sẽ cung cấp đồ tiếp liệu và sự hỗ trợ cho các khu trục hạm và một phi đạo dài 1.6 cây số cho các máy bay J-11 với tầm hoạt động là 3000 cây số.  Các ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy các hạ tầng cơ sở đã được xây cất: một bến tàu, các đường lộ, các ngôi nhà, các hàng cây dừa.
 
Diện tích của nó là 30 mẫu tây (hestares).  Khoảng cách từ JSR đến Việt Nam là 800 cây số, đến Phi Luật Tân là 850 cây số, và đến Eo Biển Malacca là 1000 cây số.
CÁC KIẾN TRÚC KIÊN CỐ HIỆN HỮU ( đã có từ trước)
 
Các cấu trúc quân sự kiên cố đã hiện hữu từ thập niên 1990.  Trên mái của tòa nhà màu trắng, có hai antenna vệ tinh, có đường kính là 2.5 mét và cao 2.4 mét.
 
3) HUGHES: Bãi đá Tư Nghĩa
 
4) FIERY CROSS REEF, Bãi đá Chữ Thập
 
Rạng đá nầmg này dài 14 dặm (gần 26 cây số), rộng 4 dặm (7.4 cây số), nằm dọc trục Đông Bắc-Tây Nam.  Khi hoàn tất, đảo nhân tạo này lớn gấp đôi Căn Cứ Diego Garcia của Hoa Kỳ tại Ấn Độ Dương.  Diện tích cả vùng trong hệ thống căn cứ là 44 cây số vuông.
 
Trong Tháng Mười Một, 2014, Tạp Chí HIS Jane Defense Magazine có phổ biến một ảnh chụp vệ tinh cho thấy một phi đạo và một hải cảng.  Nó dài 3 cây số và rộng 300 mét.
 
Ảnh chụp từ vệ tinh của Airbus Defence & Apace, chụp hôm 14 Tháng Mười Một, 2014 cho thấy rằng hòn đảo nhân tạo này tại khu vực Fiery Cross lớn hơn nhiều đảo Itu Aba hiện bị chiếm cứ bởi Đài Loan.
                                                                          
CÁC KIẾN TRÚC KIÊN CỐ HIỆN HỮU TẠI FCR
 
Cơ Sở Tiếp Liệu: Antenna với hệ thống chu kỳ 70-73 có thể hoạt động trong phạm vi đường bán kính 180 cây số.  Hai cột antenna được nhìn thấy trên nóc của tòa nhà với trang thiết bị tương đương với RW2-1 của các khu trục hạm Hoa Kỳ.
 
Sàn Phóng Hỏa Tiễn: 116 mét x 96 mét, được dùng làm căn cứ cho các dàn phóng hỏa tiễn bắn hạ các vệ tinh của Hoa Kỳ.  Antenna để truyền tin trên nóc tòa nhà.
 
5) CUARTERON, Bãi Đá Châu Viên
 
6) MISCHIEFS REEF, Bãi đá vành Khăn
 
7)  ĐẢO SUBI
 
Vòm tròn trên nóc kiến trúc là đài khí tượng.
----
Nhân danh hòa bình, Chúng Tôi, Ủy Ban Bảo Vệ Sư Vẹn Toàn Lãnh Thổ:
 
a) Kết án các lãnh đạo ĐCSVN về việc làm tay sai cho các lãnh đạo Trung Cộng góp phần vào âm mưu bành trướng của Trung Cộng và thông đồng với chúng trong việc chinh phục các nước Đông Nam Á kể cả Việt Nam.
 
b) Đòi hỏi các lãnh đạo ĐCSVN rút lui khỏi vai trò một ngụy quyền cung cấp dịch vụ làm lợi cho kẻ thù của nhân dân Việt Nam và của các dân tộc yêu chuộng hòa bình khắp thế giới.
 
c) Kết án các lãnh đạo ĐCSTC về âm mưu bành trướng của họ.  Trung Cộng nhắm vào việc chinh phục các nước khác bằng vũ lực, sáp nhập chúng vào lãnh thổ của Trung Hoa.  Các tham vọng của họ là một nguyên nhân gây bất ổn trong vùng và đối với thế giới.
 
d) Kêu gọi một sự can dự quốc tế trong việc đình chỉ các hoạt động bất hợp pháp của Trung Cộng.  Để bảo vệ các nước Đông Nam Á khỏi việc bị thống trị bởi các tham vọng bành trướng, cần đến một sự ủng hộ mạnh mẽ, tích cực và khẩn cấp từ toàn thể thế giới cho chính nghĩa này.
 
e) Kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ và nhân dân yêu chuộng hòa bình của Hoa Kỳ có một quyết tâm rõ rệt và mạnh dạn để đối phó với sự kiện rằng Trung Cộng đã tiến bước một cách vừng chắc đến việc nuốt gọn Á Châu và sau đó toàn thể thế giới.  Nước duy nhất trên toàn thế giới có khả năng đối phó với tình trạng này chính là Hoa Kỳ.
 
Chính sách của Tổng Thống Obama về việc “tăng cường các liên minh cũ và trui rèn đối tác mới để đối phó với các thử thách chung” và sự tái phối trí các lực lượng quân sự tại các căn cứ khắp Á Châu và Úc Châu, cũng như kể cả đự án Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhất thiết là cần nhưng chưa đủ.  Lý do bởi sự kiện rằng Tổng Thống đang suy nghĩ về việc xây dựng sức mạnh quân sự để đối phó với các thử thách theo lối chiến tranh quy ước.  Vì lý do đó BIÊN ĐÔNG NAY GẦN NHƯ NẰM TRONG TAY CỦA ĐCSTC.  Nếu điều này xảy ra, các quyền lợi chính đáng của Hoa Kỳ như được tuyên bố bởi Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates và Bộ Trưởng Ngoại Giao Hilary Clinton  vào năm 2010 sẽ bị vô hiệu hóa.  Và khó khăn cho Hoa Kỳ và thế giới sẽ khởi diễn từ đây.  Nên nhớ rằng địch thủ tiềm ẩn của Hoa Kỳ có một đầu óc của một con cáo đang chơi một ván bài chiến tranh đa diện với mọi phương tiện khả hữu, ngay cả với các phương tiện vô đạo đức.  Một “Hoa Kỳ’ Lịch Sự lương thiện không thể đối phó với nó một cách hữu hiệu.
 
Chiến lược chúng ta cần có là một chương trình hành động thổng thể hữu hiệu để tẩy trừ triệt để căn nguyên của vấn đề./-
                                                Làm tại California,  ngày 22, tháng 1 năm 2015
                                                       Nguyễn Văn Canh, Chủ Tịch
GS Nguyễn Văn Canh là cựu Giáo Sư, Đại Học Luật Khoa Sàigòn, và Học Giả Thỉnh Giảng tại Viện Nghiên Cứu Hoover về Chiến Tranh, Hòa Bình và Cách Mạng, Đại Học Stanford University.