Mustafa Kemal, vị sáng lập đệ I Cộng Hòa Thổ-Nhĩ-Kỳ (Turkey) là một nhà đại cách mạng có một không hai trong thế giới Muslim đầu thế kỷ XX; qua đó ông không chỉ đánh bại thực dân Anh, Pháp, Ý và Hy-Lạp ở cựu đế quốc Ottoman giành độc lập và khai sinh chế độ Cộng Hòa Thổ, ông còn giải phóng phụ nữ Thổ khỏi chế độ "sultanate" (tăng lữ) và luật của Islam mà người Thổ gọi là "seriat" (Shari'ah) do các "imams-hatip" (giáo sĩ) của "caliphate" (đế quốc Hồi giáo) Ottoman áp đặt để khống chế chính trị núp danh nghĩa tôn giáo. Không như họ Hồ ở Bắc Việt mạo xưng là "bác" của dân miền bắc và của VC ở miền nam, Tổng Thống Mustafa Kemal đã được quốc hội Thổ tôn vinh danh hiệu "Ataturk" (cha già dân tộc), một danh hiệu chỉ dành cho một mình ông trong lịch sử nước Thổ.
Ngày sinh và tên của ông đã từng là chi tiết gây tranh cãi. Một phần vì cha ông mất sớm; mẹ tái giá khiến ông phải tự lập sớm; một phần do đế quốc Ottoman dùng âm lịch Hijra của Islam và lịch Rumi (từ 1839) thay vì dương lịch Gregorian. Hơn nữa, tập tục của dân Thổ không có tên họ; chỉ dùng tên gọi thuở sơ sinh và tên hiệu đặt theo từng thời kỳ sinh hoạt. Do đó, ông chỉ có tên gọi "Mustafa" (=kẻ được chọn) mà cha mẹ đặt. Tên gọi bổ túc "Kemal" (=hoàn hảo) hay "Selânikli Kemal" (Kemal từ Salonica) do thầy giáo dạy toán, Đại úy Uskuplu Mustafa Sabri đặt khi ông tòng học ở trường quân sự Salonica. Tên "họ" Ataturk (=cha của dân Thổ) của ông đã được quốc hội Thổ (Grand National Assembly of Turkey=GNAT) chính thức trao tặng hôm 24/11/1934. Ông cũng có các tên gọi bổ túc như "Bey", "Pasha", "Fazil" và "Gazi" được quân đội hoặc quốc hội đặt theo cấp bậc và chức vụ từng thời kỳ mà ông trải qua.
Mustafa Kemal Ataturk sinh ngày 19/5/1881, con của ông Ali Riza Efendi một viên chức thuế vụ cấp thấp ở Salinica và bà Zubeyde Hanim. Sinh trong thời kỳ mạt Ottoman nên cha mẹ đã chọn cho ông học trường quân sự sớm để bảo đảm một sự nghiệp trong một tương lai bất trắc. Đế quốc Ottoman cuối thế kỷ XIX có dân số gần 30 triệu; rất lạc hậu và bị xâu xé bởi các cường quốc Anh, Pháp, Ý, Đức, Hy và cả dân Armenia; đòi hỏi phải được cải tổ toàn diện. Đế quốc "caliphat" Ottoman của Sultan Abdulhamit II cầm quyền suốt 30 năm với chính sách "Tanzimat" (cải tổ) vẫn không tránh khỏi lụn bại, nợ nần và khống chế từ châu Âu như triều đình Habsburg của Áo, Catherine của Nga; sau này là Đức, Pháp và Anh. Bên cạnh các "sultans" như Selim II (1789-1807), Mahmut II (1839-1876) và Abdulhamit II sau đó là giới "osmanli" còn gọi là "askeri" (quân sự) và "ulema" (học giả Islam) cầm quyền làm sao bắt kịp đà tiến hóa kinh tế và khoa học bên châu Âu khiến Ottoman bị mất đất. Hiệp ước bất lợi Kucuk Kaynarca (tên một làng của Bulgaria) năm 1774 khiến Ottoman mất Crimea vào tay Nga 1779. Anh chiếm Jerusalem 1917.
Thất bại cải tổ do đảng cầm quyền CUP (Committee of Union and Progress, tên Thổ là "Ittihat ve Terakki Cemiyeti") của Ahmet Riza để duy trì Ottoman từ 1908 đến 1913 đã tạo nên một giới quân nhân trẻ chủ trương chiến đấu giành độc lập. Từ 1913 đến 1918 họ có biệt danh "Young Ottomans" và từ 1918 đến 1922 có biệt danh "Young Turks". Từ ngữ "Young Turks" xuất phát bởi Mustafa Fazil Pasha trong chuyến viếng Paris hồi tháng 6/1867 khi tự giới thiệu mình với báo chí phương tây như là đại diện nhóm "Jeunes Turcs" của quốc gia "Young Turkey"; tức "Yeni Osmanlilar" (Tân Ottoman) sang cầu hòa với Napoléon III. Đúng một thế kỷ sau, năm 1967 tại Saigon, nguyên đại sứ Mỹ Maxwell Taylor - một cựu đại tướng Mỹ - đã dùng biệt danh này để chỉ nhóm tướng trẻ của đệ nhị VNCH đang tranh giành quyền bính lúc đó (Thiệu, Kỳ, Khánh, Khiêm . . .)!
Nhóm Young Turks gồm các sĩ quan quân đội và các viên chức chính quyền Ottoman như Ali Suavi, Ahmet Riza, Murat Bey, Bahaettin Sakir, Dr Nazim ..vv.. trong đó có Mustafa Kemal, Sait Halim Pasha, Enver Pasha, Talât Pasha đã tham gia đệ I thế chiến chống Nga, Pháp và Anh; tuyên chiến hôm 11/11/1915. Ottoman thua nặng ở trận Sarikamis hồi tháng 1/1916; thiệt 78,000 quân. Ottoman có 800,000 quân hồi 1916; đến 1918 chỉ còn 100,000! Một trong các nguyên nhân thua trận là lính Ottoman gốc Armenia thường đào ngũ sang phía Nga. Dân Armenia lúc đó ở Anatolia khoảng 1.5 triệu (10% dân số Ottoman) theo đạo Công giáo Copic và Orthodox bị coi là thứ dân trong đế quốc Hồi giáo Ottoman nên không sốt sắng chiến đấu và sẵn sàng hy sinh.
Để tránh nạn đào ngũ này, bộ trưởng nội vụ Ottoman là Talât Pasha đã ra lệnh tập trung toàn bộ dân Armenia vào thành Zor (nay thuộc Syria) từ 1915-1916; gây nên cái chết của gần một triệu dân Armenia mà sử sách gọi là cuộc tàn sát "Armenian Massacre" mà nhiều chính phủ Thổ cho tới nay đều chối bỏ trách nhiệm. Vụ tàn sát này được châu Âu, Nga và ngay cả ĐGH Francis hồi gần đây công nhận và qui trách nhiệm cho Thổ (cựu Ottoman). Các sử gia Thổ liệt kê số nạn nhân là 700,000 chết do đói khát, bệnh tật; do dân Muslim của Syria giết. Nhưng thống kê của các sử gia Armenia có con số gấp 10 lần và đa số do quân của Talat Pasha giết. Các sử gia phương tây liệt kê từ 600,000-800,000 và lí do cưỡng bách tập trung chỉ là cái cớ để che đậy chính sách diệt chủng của Ottoman hầu giải quyết vấn nạn "non-Muslim" này (thời đó chưa có từ "infidel" mà bọn Hồi giáo khủng bố ngày nay đang dùng)!
Mustafa Kemal chỉ huy trận lớn Afyon-Karahisar hôm 26/8/1922 và các trận khác thắng quân Hy-lạp; giành độc lập và thành lập đệ I Cộng Hòa Thổ hôm 29/10/1923. Ông từng phá tan thế lực lập cộng hòa Hồi giáo (như Iran sau này) của Enver hồi tháng 1/1921. Enver sau bị quân Liên-xô giết hồi tháng 6/1922. Kemal lập đảng "Mudafaai Hukuk Grubu" (bảo vệ quyền lợi); sau đổi là "Halk Firkast" (Nhân Dân). Ông lúc này được phong "Halâskar Gazi" (vị cứu tinh thống lãnh) của dân tộc. Ông cho kí hiệp ước Lausanne ngày 24/7/1923 với phe đồng minh (Entente) trong tư cách một tân quốc gia độc lập để tất cả quân ngoại quốc phải rút khỏi Thổ hôm 1/10/1923; chấm dứt thời kỳ chiếm đóng của các cường quốc tại đây. Tuy nhiên số phận dân Kurds và Armenia không được hiệp ước đề cập đến khiến hai vấn nạn này; nhất là Kurds đang là vấn đề nhức nhối nhất của Thổ hiện nay 2015. Sau 1923 khi quân các đại cường rút đi, nhiều cuộc tàn sát đã diễn ra ở Thổ khiến 2.5 triệu Muslims, 600,000-800,000 Armenians và 300,000 dân Hy-lạp bị thiệt mạng.
Kemal chọn Ismet Inonu (1884-1973) làm thủ tướng (1925-1937) và Ankara làm thủ đô thay vì Istanbul như Ottoman. Quốc hội Thổ do đảng "Halk Firkast" (People Party=PP) của ông nắm giữ đã họp hôm 1/3/1924 ra quyết nghị giải tán đảng của "caliphate"; đuổi hết các viên chức của Ottoman ra khỏi Thổ và ban hành Hiến pháp mới hồi tháng 4/1924 thay thế hiến pháp Ottoman 1876. Ông thi hành chính sách thế tục hóa quốc gia Thổ bằng các chiến dịch đóng cửa các "turbe" (lăng đền Islam) và "tekke" (dòng tu Islam) hồi tháng 9/1925, cấm đội nón kiểu sultan Mahmut II thời Ottoman và thay bằng mũ nón châu Âu. Trong thời kỳ này, tòa án độc lập đã phải bỏ tù 7,500 người bất tuân và xử tử 660 người phản kháng. Từ 1926, ông cho áp dụng tây lịch Gregory, dân luật Thụy-sĩ và hình luật Roma. Luật gia đình hoàn toàn theo thế tục. Ông cấm đa thê và tu sĩ lấy vợ! Phụ nữ được khuyến khích và tự do không đội khăn che mặt. Từ tháng 5/1926, ông thường xuyên đi kinh lí khắp nơi để kiểm tra việc thi hành.
Nhân có nhiều cơ hội tiếp cận, thế lực phò Islam của cựu dân biểu Ziya Hursit đã tổ chức ám sát ông hôm 15/6/1926 khi ông đi kinh lí ở Izmir nhưng bất thành. Lợi dụng biến cố này, ông đã bắt phần lớn đảng viên Committee of Unionists Party (CUP). Phiên tòa hôm 26/6 và 12/7 kết án 16 án tử khiến 4 bị treo cổ hồi tháng 8; trong đó có Husseyin Rauf và Kara Kemal (tự tử sau khi trốn không thoát). Sau vụ này, ông cho thành lập đảng đối lập "Serbest Cumhuriyet Firkast" (Cộng Hòa Tự Do=FRP) có cả em gái Makbule tham gia mặc dù hiến phápThổ ghi rõ là quốc gia theo thể chế độc đảng. Ông lãnh đạo từ tư dinh ở Cankaya, nơi thường xuyên có hội họp và ăn uống (rượu) suốt đêm tới tận sáng để bàn quốc sự.
Mustafa Kemal nổi tiếng với bài diễn văn dài 36 giờ đọc trước quốc hội suốt từ ngày 15 đến 20/10/1927. Bài diễn văn được xem như là nền tảng của cải cách chính trị, xã hội, văn hóa và nhiều lãnh vực khác; được dịch ra Anh, Đức, Pháp ngữ từ 1928 đến 1929. Diễn văn đã tạo nên chủ nghĩa "Kemalism" kết tinh bởi nhiều chủ nghĩa giá trị khác là Republicanism, Nationalism, Revolutionism (Reformism), Populism, Statism và nhất là Secularism (chủ nhĩa thế tục)! Chủ nghĩa Secularism chủ trương bởi nhóm Young Turks từ hồi 1913 không chỉ tách rời giáo quyền (Islam) ra khỏi thế quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) mà còn tách tôn giáo (Islam) ra khỏi đời sống công cộng (public life) trong xã hội. Nhiều tác giả phương tây đã viết sách ca tụng tân quốc gia Thổ của TT Kemal: "Die Neve Turkei" (Kurt Ziemke 1930), "The Old Turkey and The New" (Sir Harry Luke 1935), "The Turkish Transformation" (Henry E. Allen 1935), "The New Turks" (Eleanor Bisbee 1951), "Modern Turkey" (Geoffrey Lewis 1955) ..vv..
Sau khi phụ nữ Thổ được đi bầu cử, ông cho giải tán đảng "Turk Kadinlar Birligi" (Công Đoàn Phụ Nữ Thổ lập hồi 1924) hồi tháng 5/1935. Cải cách ở Thổ từ 1925 đến 1935 diễn ra trong ba lãnh vực:
1/ Thế tục hóa quốc gia về giáo dục và luật pháp vốn ảnh hưởng "ulema" (truyền thống Islam) sâu đậm từ sau trận thánh chiến 4 thắng Constantine: xóa bỏ giới "sultan" và chế độ "caliphate" trong hai đợt 1913-1918 và 1922-1924 và bằng hiến pháp mới 1928 xóa quốc giáo Islam, thay luật Seriat (Shari'ah) và hệ thống "ulema" năm 1926 bằng luật Swiss, xóa hệ thống đại học Hồi giáo "medreses" và thay bằng đại học công cộng University of Istanbul tháng 3/1924;
2/ Xóa bỏ các biều tượng Islam và thay bằng các biều tượng châu Âu: cấm đội mũ "fez" thời các sultan hồi Ottoman và thay bằng mũ nón châu Âu hồi 1925, ra lệnh lấy chủ nhật làm ngày nghỉ thay vì thứ sáu của Islam, dùng đồng hồ và tây lịch Gregory từ 1926, dùng số châu Âu từ 1928 và dùng cân đo châu Âu từ 1931, dùng mẫu tự Latin từ 1928 thay thế mẫu tự Ả-rập và Persian áp dụng từ 1/1/1929 (các Young Turks Husseyin Cahit, Abdullah Cevdet, Celal Nuri đã cùng Munif Pasha từng gợi ý từ 1862);
3/ Thế tục hóa đời sống xã hội Islam để có xã hội tự do phát triển: phụ nữ được đi bầu và hành nghề chuyên môn như lái máy bay, hát opéra và thi hoa hậu.
Nước Thổ dưới sự cai trị của TT Kemal đã thành công về ngoại giao: Thổ kí hiệp định bất tương xâm với Ý năm 1928, hiệp ước hữu nghị với Hy-lạp hồi tháng 10/1930 và nhiều hiệp ước hòa bình khác với các nước vùng Balkan, Iran, Iraq và Afghanistan hồi các năm 1934 và 1937; với Liên-xô hồi 1935. Thổ tham gia hội quốc liên (League of Nations) - tiền thân của Liên Hiệp Quốc - năm 1932. Chế độ độc đảng của TT Kemal ở Thổ được so sánh với các chế độ Salazar ở Portugal (Bồ-đào-nha), Mextaxas ở Mexico và Franco ở Spain (Tây-ban-nha) hồi các thập niên 1930, 1940 nhưng nó không giống hẳn chế độ Mussolini ở Ý vì chế độ Mussolini là quân phiệt lập bởi phong trào qua mặt quốc vương; trong khi chế độ Kemal được hiến pháp do quốc hội lập hiến qui định. Khi đã đau yếu nặng trước khi qua đời mấy tháng, TT Kemal còn tiếp vua Carol II của Romania hồi tháng 6/1938.
Cộng Hòa Thổ của Kemal may mắn chỉ phải trả 78 triệu USD (65%) mà hội Quốc Liên (của phe đồng minh Entente thắng trận) buộc trong số nợ 170 triệu mà đế quốc Ottoman vay; phần lớn của vương quốc Đức là bên thua trận. Tuy nhiên phần lớn dân Hy và Armenia (2 giới nắm cán cân kinh tế Ottoman, Thổ) di cư sang Mỹ, Nga và Pháp nên Thổ thiếu chuyên viên kinh tế và kỹ thuật. Ngoài Ottoman Bank, Thổ còn có ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng kinh doanh lập năm 1924-1925 mà TT Kemal rất quan tâm. Sau thế chiến 2, kinh tế Thổ bị ảnh hưởng nặng vì kinh doanh với Đức, nước thua trận chiếm 50%. Thuế "Varlik Vergisi" đánh vào nhà giàu (non-Muslims) hồi tháng 11/1942 bị thất thu khi dân Armenia và Hy di cư sang Mỹ, Pháp và Hy-lạp. Thuế này bị bãi bỏ hồi tháng 3/1944. Bù lại, Thổ được nhận 10% tiền lời bán dầu thô của Anh ở Mosul suốt 25 năm khi hội Quốc Liên công nhận thành phố này thuộc về Thổ hồi tháng 6/1926; mặc dù quân Thổ đã bị quân Anh đánh đuổi khỏi Mosul hồi 1924. Hồi 1933, Pháp cũng chỉ đòi được một phần nợ mà Ottoman đã vay.
Là một Muslim đủ trình độ để đọc sách Koran bằng tiếng Ả-rập, TT Kemal đã từng có bài viết trong một chương của quyển "Islamic History" và từng nghiên cứu về Islam qua các sách "History of Islamic Civilization" của Georgi Zaidan, "History of Islam" của Leone Caetani ..vv.. Nhờ vậy ông có nhận định và thực hành chính đáng về Hồi giáo. Ông xem Islam là gạch nối giữa con người và Thượng đế. Ông nói : "Tôn giáo là một vấn đề lương tâm. Ai cũng luôn được tự do để hành động theo lương tâm của mình. Chúng ta trong tư cách một quốc gia phải tôn trọng tôn giáo. Tước bỏ tự do cầu nguyện không phải là dự tính của chúng ta nhưng phải bảo đảm các vấn đề tôn giáo và chính quyền không được lẫn lộn".
Ông phân biệt giữa xã hội và hành đạo cá nhân. Ông áp dụng các đòi hỏi thế tục khi có hành xử tôn giáo công cộng. Ông nói rằng "không ai được cưỡng bức kẻ khác phải nhận bất cứ tôn giáo hay giáo phái nào" (tự do tín ngưỡng). Đồng thời "ai cũng có quyền hành đạo hay làm ngơ mà bổn phận của bất cứ tôn giáo nào cũng phải để kẻ ấy chọn; chẳng hạn quyền không nhịn ăn dịp Ramadan". Các diễn văn và sách của ông chỉ trích hệ tư tưởng tôn giáo. Ông xem tôn giáo là "học viện không cần thiết" và có thể tránh được trong đời sống công cộng. Ông nói tự bản thân tôn giáo không có trục trặc gì mà "vấn đề là tín đồ hiểu và áp dụng tôn giáo ra sao". Tôn giáo đích thực không thể hiểu được bao lâu mà "các tiên tri dởm chưa bị cô lập".
Nhiều năm sau khi Thổ đã tiến bộ và thế tục hóa, TT Kemal đã chỉ trích luật Shari'ah của Islam là một luật "Ả-rập vô đạo đức". Ông viết; "Trong gần 500 năm, các luật lệ và chủ thuyết này của các sheikh Ả-rập và việc diễn đạt của các thế hệ giáo sĩ lười biếng và chẳng hữu dụng cho ai cả đã định đoạt luật dân sự và hình sự cho nước Thổ"; và rằng "họ định đoạt hình thức hiến pháp, chi tiết đời sống của mỗi công dân Thổ; cả thức ăn, giờ thức giấc và ngủ theo hình thái của quần áo; cả chu kỳ sinh sản con cái của người vợ, học cái gì ở trường, kiểu trang phục, tư tưởng san bằng trong các thói quen thân thuộc. Chủ thuyết Ả-rập vô đạo đức này (mà Islam đại diện) chính là sự chết. Có thể nó thích hợp với các bộ lạc ở sa mạc; nó không tốt cho một xứ sở tiến bộ và phát triển. Thượng đế dậy đi! Làm gì có Thượng đế! Đây chỉ là xiềng xích mà các giáo sĩ và nhà cai trị xấu dùng trói buộc dân chúng. Một nhà cai trị cần tôn giáo thì yếu đuối. Kẻ yếu đuối không được cai trị!".
Tổng Thống Kemal không thành công về mọi mặt trong đời. Ông không sống đủ thọ để xóa bỏ được tục dùng tên gọi thay vì tên họ như phương Tây để dễ lập hồ sơ lí lịch và tránh nạn trùng tên gọi không kiểm soát nổi; gây trở ngại hành chánh. Các phú nông ở nông thôn cứ rước thêm vợ bé về nhà mà không khai báo thì ông cũng chịu thua. Bản thân ông rất gương mẫu - chỉ cưới vợ một lần duy nhất - và hạnh phúc cũng chẳng bao lâu: Ông cưới Lalife hôm 29/1/1923 sau khi đã gặp bà sau trận Izmir hôm 8/9/1922 rồi ly dị hôm 5/8/1925 mà không có con. Từ đó ông ở vậy và nhận nhiều con nuôi (ông chọn ngày 23/4 là "Chidren Day" và 19/5 là "Youth and Sport Day" được quốc hội ban hành là 2 ngày lễ cho đến nay). Con nuôi chót là Ulku 3 tuổi nhận hồi 1935 đã gần gũi ông cho đến vài tuần trước khi ông qua đời. Ngoài trẻ con, ông cũng yêu gia súc. Ông có con ngựa Sakarya, con chó Fox và một con mèo. Ông lập trang trại "Ataturk Orman Ciftligi" năm 1925 để nuôi gia súc và trồng trọt. Ông lập Ankara Zoo phải mất 12 năm mới hoàn tất và khánh thành năm 1945. Ông bị chai gan vì uống nhiều rượu và chết vì bệnh này hôm 10/11/1938 tại dinh Dolmabahce ở Istanbul. Trước đó ông từng bị heart attack hai lần hồi 1923 và 1929 rồi đau yếu luôn từ 1937 cho đến khi mất năm 57 tuổi. Thông tin về sức khỏe của ông được giữ bí mật. Một tờ báo bị phạt đóng cửa 3 tháng khi lỡ đề cập đến thông tin này!
TT Mustafa Kemal mất hồi 9 giờ sáng ngày 10/11/1938 tại dinh Dolmabahce ở Istanbul; thọ 57 tuổi. Thi thể ông được tạm quàn ở bảo tàng viện Ethnographic ở đây trong khi chờ đợi việc xây lăng tẩm ở Ankara. Đội Takbirs & Prayers đã cử hành lễ an táng ông theo nghi thức Hồi giáo trong hội trường của dinh. Có 17 quốc gia gởi đại diện trong khi 9 quốc gia khác đã đem hiến binh chào kính đến lễ tang. Hồi tháng 11/1953, 138 sĩ quan trẻ đã đứng dàn chào suốt 3km khi thi thể nhà đại cách mạng được chuyển về thủ đô Ankara để chính thức chôn cất. Khoảng 21 triệu dân Thổ đã đứng tiễn đưa hai bên đường cùng với các đại sứ các nước, các tỉnh trưởng, các phụ tá ban ngành quốc hội, toàn bộ nội các chính phủ, tân thủ tướng Celâl Bayar và tân tổng thống Thổ Ismet Inonu tại địa điểm hành lễ là lăng Anitkabir xây ở ngoại ô thủ đô thời đó trên một đồi cao; nay là trung tâm thủ đô Ankara. Ông được quốc hội Thổ khóa họp tháng 12/1938 truy phong danh hiệu "Milli Sef" (lãnh tụ quốc gia) và "đảng trưởng vĩnh viễn" của đảng "Halk Firkast" cầm quyền. Tài sản của cố Tổng Thống Mustafa Kemal được chia phần lớn cho đảng Nhân Dân dưới sự giám sát của em gái Makbule và các con nuôi. Các quĩ dành cho Turkish Historical Society, Turkish Language Association và quĩ giáo dục trẻ em của Ismet Inonu được hưởng phần còn lại theo di chúc kí hôm 5/9/1938. Các diễn văn, thủ bút, nhật lệnh và tài liệu thời sinh tiền của ông từ 1923 đến 1937 được ấn hành trong nhiều quyển của bộ sách "Ataturk'un Butun Eserleri" (Mọi tác phẩm của Ataturk).
Di sản vĩ đại của TT Kamal Atatuk là một quốc gia độc lập từ 1923 có quân đội hùng mạnh nằm trong khối NATO phú cường (từ ngày 18/2/1952). Thổ có được qui chế thành viên NATO năm 1952 nhờ vào việc đảng Demokrat Partisi của Adnan Menderes cầm quyền thời thập niên 1950-1960 đã đóng góp từ 5,000 đến 25,000 quân Thổ cho lực lượng hòa bình LHQ trong chiến tranh Triều-tiên hồi 1950. Nước Thổ vào thời điểm tháng 10/2014 là quốc gia đông Muslims mạnh nhất ở Trung Đông và là thành viên NATO mạnh thứ nhì chỉ sau Mỹ với 315,000 TLP (bộ binh - Turkish Land Forces). Mỗi binh đoàn chia làm 4 lữ đoàn biệt động, 9 lữ đoàn bộ binh, 14 lữ đoàn thiết vận và 17 lữ đoàn cơ giới trang bị đúng theo cấp số. Theo IISS (International Institute for Strategic Studies - Viện Quốc Tế Nghiên Cứu Chiến Lược) năm 2014, KQ Thổ có 60,000 nhân viên quân sự, 668 máy bay; trong đó có 200 phản lực cơ chiến đấu F-16.
Nhưng vĩ đại nhất vẫn là di sản của ông về văn hóa: Quốc ngữ Thổ mẫu tự Latin nay vượt ra ngòai lãnh thổ chánh quốc sang 5 lân bang cựu tiểu quốc của Soviet, nơi có đông dân Thổ là Azerbaizan, Kazakhstan, Kirghizia, Turkmenistan và Uzbekistan. Những cải cách xã hội vĩ đại của ông liên quan đến giáo dục và nữ quyền khiến Thổ là quốc gia đông Muslims duy nhất có gần đủ phẩm chất văn minh để xin gia nhập liên hiệp châu Âu. Nhà sư phạm Thổ tốt nghiệp ở Đức, Gs Ismail Hakki Tonguc được TT Kemal chỉ định thực hiện chiến dịch xóa nạn mù chữ từ 1935 nhưng kết quả ở các tỉnh lẻ không như dự liệu: trong 40,000 làng xã nông thôn, chỉ có 5,000 có trường tiểu học. Hơn nữa, từ thập niên 1980s khi đảng "Refah" (Welfare) của giới bảo thủ Islam Thổ chiếm từ 19.1% năm 1994 tăng lên gần 30% trong quốc hội chi phối lập pháp đòi áp dụng lại luật Shari'ah; nhiều đền thờ Islam được xây thêm và nhiều "imam-hatip" được đào tạo; do dó, nạn mù chữ ở vào thập niên 1990s có đến 35% bởi chủ trương trau dồi kinh Koran và mẫu tự Arab!
Bước thụt lùi văn hóa này cũng song hành với vấn đề sắc tộc Kurds tồn tại cho đến ngày nay của thế kỷ 21. Ngay từ 1912, các sinh viên Kurd đã lập đảng "Hevi" (hy vọng) và đến 1923, các cựu binh Kurds trong quân đội Ottoman đã lập đảng "Azadi" (tự do) để đòi độc lập hay ít ra là tự trị. Dân Kurds đã nổi loạn ở Diyarbakir hồi tháng 2/1925. Do hàng thế kỷ phải cầm súng để tranh đấu, sẽ không có gì lạ khi dân quân Kurds hiện là đội ngũ chiến đấu hữu hiệu nhất để chống lại "quốc gia hồi giáo" (ISIS) của Al Baghdadi mặc dù thường bị cản trở bởi quân Thổ hiện nay. Theo báo The Guardian ở Anh, tài liệu Mỹ bắt được trong vụ SEAL đột kích sào huyệt Raqqa của ISIS ở Syria hồi cuối tháng 8/2015 để giết phụ tá về tài chính của lãnh tụ ISIS là Junaid Husssain cho thấy Thổ của Erdogan đã mua dầu thô giá rẻ của ISIS; giúp tài chánh từ 1 đến 4 triệu đô mỗi ngày cho tổ chức cùng hệ phái Sunni này mua vũ khí. Erdogan còn chỉ điểm cho ISIS tấn công sinh viên Thổ gốc Kurd đến Suruc hôm 20/7/2015 để họp bàn tái thiết Kobani; giết chết 32 sinh viên và làm bị thương khoảng 100 người khác.
Đảng PKK của người Thổ gốc Kurd do sinh viên Abdullah Ocalan ở Ankara University lập năm 1978 vẫn là đảng mạnh nhất trong mấy đảng tranh đấu đòi độc lập của người Kurds hiện nay. Do đó, Thổ dưới sự lãnh đạo của TT Tayyip Erdogan hiện lo ngại người Kurds (dân số 15 triệu trong tổng số 80 triệu dân của Thổ hiện nay) hơn là bọn Quốc Gia Hồi Giáo (Daesh-ISIS) vì quân ISIS không chính quy và nguồn vũ khí giới hạn không có tiềm năng thay thế; trong khi quân Kurds bên trong Thổ (đảng PKK), Iraq và Syria (HDP) đều tinh nhuệ bậc nhất trong vùng và chiến đấu trường kỳ cho tương lai một quốc gia độc lập Kurdistan mà lãnh thổ sẽ là những phần đất dọc tam biên họ chiếm được từ tay ISIS. Mỹ đã tín nhiệm và yểm trợ họ hết mình để chiếm lại được Kobani (hiện do HDP - đảng Dân Chủ Nhân Dân Kurd quản lí) và nhiều phần đất khác từ tay ISIS.
Để chận đứng nguy cơ lập quốc ở vùng tam biên này (mà Thổ có thể bị mất một phần đất) của quân Kurds, TT Erdogan sau thời gian dài từ khước đã đột ngột giả vờ cùng Mỹ tham gia oanh tạc ISIS để tiện thể tiêu diệt quân Kurds - mà tiêu diệt Kurds là chủ yếu - nhưng Mỹ thấy điều này và đã nhắc nhở. Erdogan bèn đánh đổi việc cho Mỹ dùng căn cứ KQ Thổ Incirlik sát Syria hồi tháng 7/2015 để đánh đổi việc Mỹ (vẫn oanh tạc ISIS) thôi yểm trợ trực tiếp quân Kurds ở đây và Obama đã đồng ý theo điều lệ của NATO. Recep Tayyip Erdogan từng là đảng viên AK (Phát Triển) của cố TT Kamal chủ trương Thổ thế tục; thế nhưng từ khi nắm quyền (Thủ Tướng) cách nay 11 năm và mới cuối năm 2014 đắc cử Tổng Thống (thứ 12 của Thổ), Erdogan ngày càng chịu ảnh hưởng của bọn imams-hatip muốn biến Islam thành quốc giáo của Thổ; đi ngược chủ trương của vị lập quốc.
Erdogan còn sinh tật tham nhũng: Cuối năm 2013, một băng thu lén được phổ biến; trong đó Erdogan thúc giục con trai hãy đem gói tiền mặt lớn trong nhà đi giấu chỗ khác. Sau đó Erdogan đã cách chức vô số viên chức tư pháp, cảnh sát và bỏ tù cả trăm kí giả để trả thù. Ảnh hưởng vụ này phần nào khiến đảng đương quyền của Erdogan mất thế đa số tại quốc hội trong kỳ bầu cử mùa xuân 2015 vừa qua; trong khi đảng HDP thân Kurds chiếm 12%. Mỹ chắc chỉ ưa Erdogan nhất ở chỗ ông ta thù cá nhân TT Syria Bashar al-Assad; kẻ mà Mỹ phải trừ khử vì đã để Putin duy trì quân cảng Nga (từ thời Soviet đến nay) - quân cảng ngoại quốc duy nhất đối nghịch với Mỹ - ở Trung Đông và vì đã giúp tổ chức Hồi giáo khủng bố Hebollah giết trên 250 lính Mỹ ở Lebanon thời thập niên 1980 rồi chiếm đóng nước này thập niên sau đó!
Trong một bài viết có tựa đề "Medeni Bilgiler", cố Tổng Thống Mustafa Kemal đã mô tả Islam là "tôn giáo của người Ả-rập"; và trước khi đón nhận tôn giáo này, Thổ "đã là một quốc gia lớn". Tôn giáo này đã "không hữu hiệu trong việc kết hợp các sắc dân Ả-rập, Ai-cập, Trung đông và Thổ để cấu thành một quốc gia"; trái lại nó còn "khiến quan hệ quốc gia lỏng lẻo" và "hưng chấn quốc gia bị tê liệt". Điều này "rất tự nhiên"; vì "mục tiêu của Islam do Muhammad thành lập là lôi kéo chính trị quốc gia Ả-rập vào trong đó". Theo sử gia Kemal Karpat, TT Kemal "không chống Islam" nhưng những kẻ chống quyền chính trị của ông "đã dùng tranh cãi tôn giáo" để chống ông; và rằng ông là một "kẻ thống trị kém cần tôn giáo để dựa như thể gài dân tộc ông vào cái bẫy". Điều này có lẽ chỉ đúng đối với cá nhân Recep Tayyip Erdogan; kẻ biến chất và tham nhũng cần núp bóng bọn imams-hatip để sự nghiệp chính trị của mình sống còn; phản bội truyền thống Thổ mà cố Tổng Thống Mustafa Kemal Ataturk đã dày công xây dựng!
HÀ BẮC
No comments:
Post a Comment