Sunday, October 26, 2014

Vàng Đen 1-9



Kỳ 1



Cuối Xuân 1994.

Ánh sáng ban mai trải dài trên lớp mái vàng của hoàng cung Lào, phản chiếu lên những tia sáng chói chan, rồi len lén trải nhẹ trên thân một tượng Phật bằng vàng, thật lớn giữa vườn thượng uyển. Quanh quanh, tiếng chim líu lo hót làm tăng thêm cái thanh thản, êm đềm của một bình minh nơi thủ đô của xứ ngàn voi phục.

Nhưng cái thanh thản của một sớm mai không giúp được hoàng thân Souvano Xithôn, một trong những hoàng thân còn lại trên tước hiệu của vương quốc Lào, bớt phải vội vã.

Bên ngoài, dưới sân đoàn hộ vệ và người tài xế riêng của hoàng thân đang lăng xăng chuẩn bị đoàn xe trong một tư thế sẵn sàng khởi hành.

Thùng thình trong bộ quốc phục, sàrông xanh đậm với những sọc kim tuyến nhạt chạy ngang, một chiếc áo lụa trắng tinh, tóc rẽ ngôi thẳng tắp, hoàng thân vội vã bước đến bàn thờ lộ thiên trước mặt tượng Phật, xì xụp làm lễ thật nhanh với sự phụ giúp của một nhà sư già, đoạn thẳng bước ra đoàn xe đang chờ sẵn. Nhà sư già cùng lên xe, ngồi cạnh hoàng thân.

Từ ngày hoàng thân Souphanouvong qua đời, hoàng thân Souvano Xithôn phải lãnh phần kế vị chức cố vấn chính phủ.

Hôm nay hoàng thân phải tham dự lễ cắt băng khánh thành một cây cầu, dù đã có sự hiện diện của người thủ tướng Lào do cộng sản Pathet Lào đưa lên; Cây cầu nối liền biên giới Thái-Lào do chính phủ Úc Ðại Lợi thực hiện và trao tặng cho hai quốc gia để tăng thêm phần hữu nghị giữa ba nước. Trong lòng thật không muốn đi, nhưng buổi lễ bắt buộc phải có sự hiện diện của hoàng thân Xithôn, vì lần đầu tiên trong hai trăm năm, quốc vương Thái, hoàng hậu cùng hoàng thái tử sẽ từ tỉnh Nông Khai, qua cầu để đến Viên Chắn của xứ Lào.

“Quốc sư nghĩ sao về chiếc cầu?”




Kỳ 2



“Thưa hoàng thân, trên nguyên tắc, chiếc cầu rất có lợi cho nền kinh tế của cả hai nước Thái Lan và Lào của chúng ta, nhưng thực chất, tôi e ngại rằng, Thái Lan và Úc Ðại Lợi sẽ hưởng nhiều quyền lợi hơn chúng ta, vì xứ của chúng ta không sản xuất được gì cả, dù ta có rất nhiều hầm mỏ.

Tất cả mọi thứ hàng thông dụng hàng ngày đều phải mua từ Thái Lan, còn với cây cầu này, Úc sẽ dễ dàng định được giá cát...”

“Cát? Tôi tưởng chỉ có người Nhật mới mua cát để làm thủy tinh, Úc có chán vạn gì cát.”

“Thưa ngài không, cát bồi tại lòng sông Mêkông nơi xứ của chúng ta mới thật sự tốt để sản xuất được loại thủy tinh tốt. Kỹ nghệ máy móc của người Nhật rất cần đến thủy tinh tốt, hơn cả người Úc, nhưng những trục lộ giao thông chính của chúng ta đã được người Úc thầu và tu bổ, gián tiếp người Nhật vẫn phải trả tiền vận chuyển cho người Úc, qua những dịch vụ chuyển vận của Úc Ðại Lợi. Nhưng điểm chính tôi muốn trình bày cùng ngài là tụi Thái-y-sản (giống dân Thái lai Lào, hung dữ, sống dọc biên giới Thái, Lào). Cây cầu chính thức mở cửa biên giới hai nước sẽ là điều dễ dãi cho tụi Thái-y-sản xâm nhập, luân lý và đạo đức của nước chúng ta đã bị băng hoại bởi những Pháp, Mỹ, và hầu như gần bị người Việt Nam đồng hóa, nay lại thêm tụi Thái-y-sản, tôi không biết quốc gia ta sẽ đi về đâu?”

“Ðúng là điều làm tôi nát đầu bấy lâu nay. Trước kia, chúng ta còn có con sông Mêkông làm biên giới, nay khó lòng kiểm soát được tụi Thái man dã đó.”

Sau tiếng thở dài của hoàng thân Lào, cả hai cùng im lặng. Mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình.

Ðoàn xe bon bon chạy trên những con đường của thủ đô Vạn Tượng, sửa soạn băng qua những vùng ngoại ô để vượt những cánh đồng lúa nếp trước khi đến biên giới Thái-Lào. Chợt nhìn thấy từ phía trước, thật xa, thấp thoáng những bóng áo vàng, hàng một đang phất phơ bay trong gió.

Ðoàn sư gần chục người, đầu không nón đội trời, chân không giầy đạp đất, lặng lẽ đi ngang những người đàn bà Lào đang kính cẩn quỳ bên vệ đường, và những người đàn bà rón rén bỏ tặng phẩm vào bình bát của từng vị sư. Từng món tặng phẩm được cung kính đưa ngang mày trước khi đặt nhẹ vào bình bát, nhẹ đến độ tay không dám chạm vào bình bát, như chừng sợ làm ô uế chuyện tu hành của những nhà sư. Trong khi những nhà sư không một lời cám ơn, chỉ lặng lẽ chìa những chiếc bình bát được làm bằng đồng hay bạc, lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời, để đón nhận.

“Ðây mới chính là lối thoát, đây mới chính là lối thoát, cho xe dừng lại, dừng xe lại.”

Giọng của hoàng thân hớn hở thật bất ngờ, bất ngờ hơn nữa, ngài lại ra lệnh dừng xe lại, chiếc xe chao nhẹ rồi từ từ dừng lại.

“Cạnh những nhà sư kia, lái lại gần chỗ những nhà sư.”

Chiếc xe từ từ nhích lên, rà sát lại cạnh những nhà sư đang đi cầu thực. Lệnh của hoàng thân ra thật bất ngờ, làm những chiếc xe hộ tống đi đầu lẫn đi sau đâm ra tán loạn hàng ngũ, chiếc trở đầu, chiếc cặp sát bên ven đường, chiếc thắng ken két trên mặt đường làm mọi người dưới đường, từ sư cho đến dân giả đều hoảng hốt, chừng như nhận ra hoàng thân Souvano Xithôn khi ngài đang bước xuống xe, mọi người đều quỳ rạp đất để lạy, kể cả các nhà sư đang được khách thập phương quỳ lạy.

“Xin mời quý sư đứng dậy.”

Hoàng thân Xithôn từ tốn mời các nhà sư đứng dậy, trong khi đó người sĩ quan chỉ huy toán hộ tống xanh mặt chạy lại.

“Trình hoàng thân, chỗ này không được an toàn, lại nữa ngài có thể đến đó trễ mất.”

Khẽ xua tay, hoàng thân hỏi người sĩ quan:

“Người và toán lính lấy hết tiền ra cho ta mượn.”

“Trình... trình...”

“Trình, trình cái gì, có bao nhiêu tiền gom hết ra đây, ta chỉ mượn thôi chứ có lấy của các người đâu.”

“Thưa chúng tôi không dám nghĩ như vậy, nhưng ngài thật sự muốn mượn?”

“Ta đùa với nhà ngươi à?”

Sau khi gom được một món tiền kha khá từ tay những người lính cận vệ và nhẩm đếm, hoàng thân cung kính chia thành từng món tiền nhỏ, đều nhau, tay lễ độ đưa lên trán, trước khi nhẹ nhàng bỏ vào từng cái bình bát của từng nhà sư. Những nhà sư, sau khi nhận lễ của hoàng thân, cũng cung kính lạy để tỏ sự cám ơn, hoàng thân chỉ khiêm tốn trả lễ.

Sự việc diễn ra chỉ chừng vài phút, nhưng không biết ở đâu dân chúng đã lũ lượt rủ nhau ra xem hoàng thân Xithôn để tỏ lòng ái mộ. Dù đang ở thật xa, nhiều người đã khởi sự vái lạy. Những người đàn bà, ngay từ khởi đầu, quỳ gần hoàng thân Xithôn, nên đã chứng kiến hết những cảnh, một người của hoàng tộc, hạ mình vay mượn tiền của đám cận vệ để cung kính cúng dường, đã không dấu nổi những cảm động nên xì xụp lạy.

Ðoàn xe lại tiếp tục lên đường.

“Ðạo Phật mới chính là lối thoát tinh thần, đạo đức cho dân tộc của chúng ta.”

Sau câu nói của hoàng thân, chỉ thấy nhà sư già trầm ngâm.

“Thưa ngài, tôi nghĩ cũng chưa hẳn, đạo Phật cao siêu, ý tưởng của Phật vô cùng, tôi được ngài thương nên ban cho chữ đắc đạo, cho được cận kề ngài để giúp ngài về những chuyện công quả, nhưng quần chúng quá giản dị, chỉ hiểu hời hợt bề ngoài của đạo pháp, người dân tưởng rằng càng cúng dường nhiều, tội lỗi sẽ được trả nhiều, cùng tạo nên được nhiều phước đức, nên họ dám đặt cả chuyện tạo nghiệp và chuyện cúng dường lên bàn cân để xem lỗ, lời.”

“Cũng không trách họ được, dân trí thấp, chính là lỗi ở ta, lỗi của những người lãnh đạo tinh thần, nhưng ngược lại, quốc sư cũng phải nhận thấy một điều, nhiều khi cái tinh thần sùng đạo đến độ cuồng tín cũng có lợi cho những người lãnh đạo, chỉ cần dùng tôn giáo chúng ta đã có thể lay chuyển cả một khối ù lì, trì trệ.”

“Tôi chỉ cầu cho vị lãnh đạo của chúng ta thật anh minh.”

Cắt ngang câu chuyện bằng cách chỉ tay về phía trường quân sự Chinimụ, nơi C.I.A. đã đổ tiền để đào tạo những sĩ quan tình báo bản xứ, hoàng thân Xithôn khẽ nói:

“Hình như mình cũng sắp đến nơi?”

Kỳ 3



Ðoàn xe vượt luôn qua cây cầu dài cả dặm Anh, bắc ngang khu thảo cầm viên, thường được gọi nôm na bởi dân chúng Vạn Tượng, khu thuốc lá ba số 5. Rồi vượt qua một cánh đồng thơm ngát mùi lúa để đến Thà Ðừa.

Cờ xí đã phất phới đầy trời, cây cầu mới xây dẫn tầm mắt của hoàng thân Xithôn băng qua sông, bước xuống biên giới của thị trấn Nông Khai, Thái Lan. Bên ấy, cờ quạt cũng rợp bóng.

Buổi lễ khánh thành diễn ra một cách trang trọng với những nghi lễ ngoại giao và tôn giáo cần thiết. Ngoài sự hiện diện đương nhiên của quốc vương Thái, thủ tướng Lào cùng vị hoàng thân Souvano Xithôn, đại sứ Nhật và Úc cũng xun xoe ngồi trên khán đài.

Sau khi cùng quốc vương Thái cắt chiếc băng khánh thành, được buộc giữa cầu, chiếc băng với mầu sắc sặc sỡ được thả lỏng, phất phơ bay trong gió.

Nhìn qua thành cầu, theo dòng nước ngược lên phía thượng lưu, nơi con sông chảy đến từ xứ Miến Ðiện; Hoàng thân Xithôn chỉ còn ngán ngẩm thở dài, nơi đấy, lực lượng phiến loạn của Miến Ðiện tự tách rời, tự trị của Khun Sa càng ngày, càng mạnh. Một lực lượng du kích vô cùng thiện chiến, sống sung túc nhờ cây thẩu (thuốc phiện) trong vùng tam giác vàng, đang gây một áp lực gián tiếp nhưng rất nặng nề lên vương quốc Ai Lao.

Trong nước, hoàng thân lại phải chịu áp lực của những tổ chức buôn lậu quốc tế, rồi tình báo C.I.A. của Mỹ cũng trà trộn nhan nhản đầy vương quốc. Chúng ra vào vương quốc như trẩy hội, ngay cả hoàng cung, đôi khi nửa đêm gà chưa gáy sáng, chúng cũng sùng sục vào đòi gặp cho được hoàng thân, dưới danh nghĩa những cơ quan thiện nguyện quốc tế. Thủ tướng Lào hoàn toàn là một chức vị bù nhìn, chiếc bình phong của cộng sản Pathet Lào với sự giật dây của cộng sản Việt Nam, không có được một quyền lực thật sự, do đó tiếng nói chỉ đi vào quãng không, dù chỉ để phản đối một chuyện nhỏ nhặt, vớ vẩn.

Dòng nước thấp và đục đang từ từ cuốn những đám lục bình với những đóa hoa tím thật buồn trôi qua dưới gầm cầu. Nhưng lạ, như chợt khám phá ra một điều gì đó khi hoàng thân chăm chú nhìn đóa lục bình.

Dòng nước không mạnh, nhưng chắc phải có những lúc thật nghiệt ngã, nghiệt ngã như dòng đời, đóa lục bình vẫn nổi và vẫn ngạo nghễ nở những đóa hoa tím buồn dưới ánh mặt trời. Hoàng thân tự nhủ: “Cánh lục bình, dù bị vùi dập, đẩy đưa đây đó, dù đã bị trôi dạt từ một xứ lạ này đến một xứ lạ khác, vẫn cố gắng tiếp tục lên đường. Tại sao ta, một hoàng thân, một người thuộc hoàng tộc của một vương quốc, lại không thể vui vẻ tiếp tục kiếp làm người.”

Gánh ưu tư, phiền muộn của hoàng thân Lào bỗng thấy như nhẹ đi, ngài gởi chúng theo những đóa lục bình đang từ từ trôi qua dưới gầm chiếc cầu vừa khánh thành.

Những đóa lục bình sau khi gánh cho hoàng thân Lào những ưu tư, thong thả nối nhau trôi qua gầm cầu để xuống vùng hạ lưu, thong thả đến độ muộn màng, dễ chừng chúng muộn có đến hơn chục năm để được nhìn thấy như các đàn anh, đàn chị của chúng trước đó đã nhìn thấy.



CHƯƠNG 1



1981.



Một trái cầu đỏ như lửa đã nổ tung giữa dòng sông Mêkông, tạo ra một làn ánh sáng lóa mắt. Trái cầu đỏ đã nổ giữa đêm, giữa dòng sông Cửa Long định mệnh, ngăn đôi biên giới Thái, Lào.

Ánh sáng đã lóe lên, đánh thức những đóa lục bình đang lặng lờ trong đêm đen, đang trôi dưới hạ lưu của cây cầu hơn cả trăm cây số đường chim bay, hay đúng hơn, những đóa lục bình của những năm xưa đang băng ngang qua thành phố Sà Vằn (Savanakhet).

Trái B 41 đã được phóng ra và thổi tung chiếc ghe tam bản đang lênh đênh gần giữa dòng sông Cửu Long, ánh sáng chỉ kịp cho thấy chiếc ghe vỡ tung, xác người bắn lên và rơi xuống dòng nước. Yên lặng vài giây rồi vỡ òa với những tiếng dứt lác của đám lính Pathet Lào đang ở bên bờ đất Lào.

“Ðồ cà đè (đồ đĩ ngựa), ông bố già nó nằm kích ngay đây mà dám băng sông để trốn.”

“Báo cáo thủ trưởng, có cần chúng tôi chèo ghe ra coi có đứa nào còn sống không?”

“Khỏi cần, chúng mày về ngủ đi. Hứng nguyên trái B 41, tụi nó còn manh giáp gì nữa.”

“Lúc nãy, tôi chỉ thấy cái đuôi ghe nổ tan thôi. Có lẽ có đứa còn sống.”

“Vậy mày thử chèo ra coi, nhưng cẩn thận đấy, bơi qua giữa dòng bên kia, tụi Thái nó bắn cho bỏ mẹ. Hòa bình đã đến rồi mà còn chuồn.”

“Rõ.”

Ánh đèn pin lấp loáng cho thấy những bộ quân phục Pathet Lào, nhưng tiếng nói lao xao lại toàn Việt Nam, giọng Bắc kỳ, đôi khi dặm vài câu chửi tục tĩu bằng tiếng Lào. Hai người lính thả chiếc ghe xuống nước, bắt đầu chèo ra sông.

Giữa đêm khuya, tiếng dứt lác trên dòng sông bay đi lồng lộng. Ánh đèn pin đảo lộn không ngừng trên mặt nước.

“Báo cáo thủ trưởng, chúng tôi vớt được một người.”

Dòng nước của sông Cửu Long vào mùa hè tuy cạn, không xa lắm, nhưng tên đại úy vẫn đưa hai tay lên miệng làm loa hỏi vọng ra:

“Ðực hay cái.”

“Dạ đàn ông.”

“Cột mè (Ðịt mẹ). Vất mẹ nó đi.”

“Nó còn sống.”

“Ừ, thì đem vào để ông xem mặt thằng ranh con nào.”

Phiên chợ ở Sà Vằn hôm ấy đông đảo lạ, ngoài những người nhà quê Lào chất phác, thật thà, còn một đám đông người hiếu kỳ đang đứng xem và xầm xì ầm ĩ một góc chợ.

Ðám ruồi xanh bất ngờ bốc tung lên, ngàn đôi cánh tạo nên những tiếng vo ve thật khó chịu, có con đậu táp lên một vài người, đâm cả vào mũi miệng nếu vô tình đang hả miệng để nói, có con lăng quăng một chút rồi lại đậu tiếp lên miếng mồi cũ. Miếng mồi hãy còn béo bở lắm, chúng chỉ rủ nhau ù té bay lên theo phản ứng tự nhiên mỗi khi miếng mồi động đậy. Miếng mồi phập phồng lên xuống theo nhịp thở, vẫn tiếp tục rỉ máu, dù dưới đất, người ta có thể ước lượng đến vài chén máu khô.Kỳ 4



Xác còn sống của một người đàn ông được đặt nằm xấp cạnh cổng chợ, hơn chục tên Pathet Lào gốc Việt đang ngồi vắt vẻo trên những sạp hàng bỏ trống, chúng cười nói huyên náo, một tên chừng có vẻ một cán bộ chính trị ra lệnh cho mọi người im lặng, bắt đầu tuyên truyền:

“Từ ngày cách mạng giải phóng được toàn thể Nam Việt, Lào, Campuchia, cách mạng đã đem được tự do, no ấm đến nơi nơi, nhưng Mỹ ngụy vẫn ngoan cố, vẫn chưa chịu chấp nhận cái nhục thất trận nên vẫn thường xuyên gởi những toán tình báo từ Thái Lan, băng qua sông Cửu Long để nghiên cứu và đánh cắp những tài liệu quý báu của vương quốc chúng ta về cả quân sự lẫn kinh tế. Tối hôm qua tổ kích của chúng ta đã kịp thời phá hủy nguyên một tổ gián điệp C.I.A của Mỹ, khi chúng chưa kịp đem những tài liệu đánh cắp được, do chúng ta ngụy tạo, về Thái Lan. Ðồng bào hãy nhìn hình ảnh của một kẻ làm gián điệp, làm tay sai cho địch, cả trăm người qua lại nhưng không có lấy một người rủ lòng thương hại.”

Không một ai rủ lòng thương, mọi người đều ái ngại cho kẻ xấu số, nhưng không dám thốt nên lời vì mọi người tự lo sợ cho chính mình.

Hạ phần cơ thể không một chút gì để che, dương vật bị máu từ mông chảy xuống, đóng cứng chung quanh tạo thành một hình thù xấu xí, cộng thêm lớp ruồi xanh phủ kín, càng thêm dị dạng. Hai mông đã biến mất, bầy nhầy với chút mỡ vàng còn lại, trám kín bởi nhặng xanh.

Khủng khiếp, lợm giọng hơn nữa, đám ruồi quỷ quái đã gởi gấm ngay những ổ trứng trắng, nhỏ như hột cơm nếp lên miếng mồi. Cùng sức nóng ẩm nhiệt đới của Lào, những ổ trứng đã nở trong một vài giờ, đám giòi con bằng đầu mũi kim đang lúc nhúc trong máu thịt của kẻ xấu số, chúng nhiều quá, bò tràn xuống cả mặt đất và lang thang quanh thân thể miếng mồi, nhiều con giòi còn bạo dạn hơn nữa, giang hồ đến cạnh chân của những người hiếu kỳ để rồi bị những bàn chân di miết xác chúng trên mặt đất. Bên trên miếng mồi, cha mẹ chúng đang tiếp tục dùng bữa. Có người bạo dạn hỏi:

“Sao không cho hắn vào nhà thương?”

“Tội gián điệp của hắn quá nặng nhưng cách mạng và chính phủ đã khoan hồng để hắn khỏi phải tù chung thân.”

Người tội nhân nằm dưới đất rên rỉ bằng tiếng Việt sau một lúc khá lâu ngất đi vì mất máu:

“Làm ơn bắn cho tôi chết, các ông làm ơn bắn cho tôi chết. Tôi không phải gián điệp, tôi chỉ vượt biên.”

“Tài liệu tịch thu rõ rành rành, anh còn chối cãi, nhưng cách mạng vẫn khoan hồng cho anh thêm chút thời giờ để ngẫm nghĩ rồi cám ơn cách mạng.”

Khốn thay, tội nhân không còn đủ thời gian để ngẫm nghĩ, mất một phần thịt da lớn, máu ra không ngừng từ gần sáng đến giờ, tiếng kêu oan chỉ là tiếng thở hắt cuối cùng. Ðàn nhặng xanh vẫn phủ kín vết thương. Cuối cùng, trái B 41 nổ giữa dòng sông kết liễu thêm một mạng người.

Chừng cuộc vui vừa tàn, tên cán bộ ra lệnh:

“Ðem bỏ xuống sông để làm gương cho kẻ khác.”

Ðám đông giải tán dần, phiên chợ cũng vừa tan. Vài đứa trẻ nhà nghèo, quần áo lấm lem, hiếu kỳ hò reo theo chân đám bộ đội đi bỏ xác chết xuống sông. Xác chết được kéo lê từ chợ ra đến bờ sông, trên con đường đất bụi, tuyệt không có một vết máu, xác đã chết vì mất hết máu. Xác để lại trên mặt đường những vệt dài lúc nhúc những giòi con.

Ðường phố thưa dần, mặt trời chừng muốn đứng bóng, mọi người rảo bước về nhà, lùa vội bữa cơm trưa, rồi thêm giấc ngủ trưa. Ảnh hưởng hơn nửa thế kỷ với văn hóa Pháp, người Lào, người Việt sống tại Lào đều cần một giấc ngủ trưa trước khi tiếp tục công việc buổi chiều. Cả thành phố Sà Vằn (Savanakhet) bỗng dưng yên tịnh hẳn, đâu đây một vài tiếng gà eo óc gáy trưa, tiếng gáy nghe buồn và não nuột.

Khá xa, dưới hạ lưu của sông Cửu Long kể từ Sà Vằn, giữa những đám lau sậy, trên một cù lao nổi trơ gần giữa dòng đang cạn nước, một người đàn bà, quần áo, đầu tóc dính đầy bùn đất đang tỉ tê ngồi khóc.

“Có im bu cái miệng đi không, ông lại thí cho một phát là đi đời mẹ đĩ.”

Kèm theo câu dọa nạt, tiếng lên đạn của súng, một họng súng AK 47 dí thẳng vào thái dương người đàn bà. Tiếng khóc dứt ngay, nhường chỗ cho một cái liếc mắt thật sắc và thật nhanh tổng quát vào đám bộ đội đang đứng vây quanh. Ðôi mắt quá nhanh của một con buôn lão luyện khiến cho đám bộ đội không kịp nhìn thấy.

“Bà làm gì lại ngồi đây một thân, một mình?”

“Các con ơi, cứu mẹ với, ai đời lũ con trời đánh của mẹ nó lừa mẹ ra đây, lột hết cả tiền của, rồi định trấn nước mẹ cho chết, ai ngờ trời còn thương cho mẹ gặp được các con, các con cứu mẹ với, mẹ phải đi trình với bộ đội để bắt rồi giết cha chúng nó đi.”

“Con bà à?”

“Còn ai nữa, chúng làm chìm cả ghe để định giết mẹ, tiên sư bố nó cái quân mèo mả gà đồng, voi dầy, ngựa xéo. Các con có bắt được, cứ thẳng cánh giết bố nó đi cho mẹ.”

Ðám bộ đội ngẩn người, tưởng đi bắt vượt biên theo sự điềm chỉ của dân chúng, ai ngờ lại gặp con mẹ điên điên, khùng khùng.

Chúng xì xào với nhau trong giây lát.

“Con mẹ này chắc lại vượt sông sang Thái chứ mẹ gì.”

“Tối hôm qua nghe đâu ở Sà Vằn có bắn được một chiếc ghe định vượt sông, không biết mụ này có dính líu gì không?”

“Trông con mụ ấy da trắng nuột như thế, chắc dân nhà giầu... Ê, bà kia, đứng lên xem.”

Tất cả những gì chúng xì xào, người đàn bà đều nghe rất rõ.

Thiểu não đứng dậy.

“Các con đưa mẹ đi bắt chúng nó à?”

“Cởi quần áo ra.”

“Ối giời ơi, con ơi là con ơi, các con lại bắt mẹ cởi quần áo, có đời thủa nào như thế này không chứ hả?”

Người đàn bà tru tréo giữa cồn đất hoang.

“Cột mè (Ðịt mẹ), cởi ra, tao bắn chết bây giờ.”

Người đàn bà riu ríu cởi chiếc áo. Một tên thò tay chộp lấy, miệng nham nhở nói:

“Cả quần nữa, điên mẹ gì mà điên, dí súng vào cũng sợ đến vãi đái, cởi nhanh lên rồi đưa quần đây.”

Chúng lần mò từng bâu áo cho đến cái cạp quần, tin chắc rằng bộ quần áo không dấu một thứ gì trong đó, một tên ra lệnh:

“Bà có dấu gì trong đít không?”

“Khổ quá, các con để mẹ truồng như nhộng, lại hỏi mẹ dấu cái gì, mẹ có gì mà dấu...”

“Ðéo mẹ, nói nhiều quá, xác như con lợn cạo, ai mà thèm, ngồi xổm xuống coi có dấu gì không?”

Kỳ 5



Tin chắc người đàn bà không có tiền, một tên có vẻ dễ chịu nhất trong bọn nói:

“Thôi được, bà theo chúng tôi, cách mạng sẽ cho bà một bữa cơm rồi bà tự lo liệu lấy.”

Người đàn bà lẽo đẽo theo sau những tên cán bộ, vở kịch đời ma mãnh vừa được hạ màn, người kịch sĩ giỏi, tồn tại lại được với sự đào thải của dòng đời. Vở kịch cô Lụa vừa đóng đã lấy hết tất cả sinh lực cuối cùng của cô, người cô nhũn ra, chân lê không muốn nổi. Từ nửa đêm, hừng sáng cho đến giờ, cô đã vật lộn với cái chết một cách hung hãn, sau khi đốm lửa của trái B 41 làm nổ tung đuôi chiếc ghe tam bản, cô cùng gia đình dùng để lặng lẽ vượt sông trốn qua Thái Lan tìm tự do.

Mọi chuyện chắc như ăn bắp, chỉ vượt con sông, chỉ cần hai chục phút, nhưng chuyện không ngờ nhất đã xẩy ra cho chính gia đình của cô, hứng nguyên trái B 41. Cô chỉ nhớ đốm lửa, tiếng nổ, chồng cô, con rể, con gái cùng hai đứa cháu nội bắn tung lên theo đốm lửa, cô ngất ngay vì sức công phá, hơi ép của trái tạc đạn.

Không biết bao lâu cô ngất đi, chắc cũng chỉ vài phút, vì khi cô tỉnh dậy nhờ hơi lạnh của nước sông, cô nghe tiếng lao xao, có bóng ghe đang rà đèn pin lục soát trên mặt nước khá xa. Những tiếng lao xao, cô nghe mù mờ qua tai vì tai của cô lùng bùng, lạo xạo như có tiếng chân ai đang đi trên sỏi. Trái B 41 ác nghiệt như phá vỡ màng nhĩ, người đau như dần nhưng cô không dám lên tiếng rên rỉ, cô chỉ nhận thức được chồng cô, con rể của cô đã cản hết tất cả sức phá của trái đạn. Ðầu mũi ghe dập dềnh nổi trên mặt nước, len vào đám lục bình rồi trôi theo dòng nước đã cứu thoát cái thân xác phì nộn của cô khỏi bàn tay những tên Pathet Lào.

Lâu lắm, cô không biết được bao lâu, tất cả dạt vào một cồn đất với đầy lau sậy, nước triều đang xuống. Trí óc cô làm việc dữ dội, phải giải quyết ngay mũi ghe, cô đẩy, cô kéo, cuối cùng mũi ghe cũng trôi ra được đến giữa sông và lại lặng lẽ lên đường. Trước hay sau, thể nào cô cũng chạm trán với tụi Pathet Lào, phải tìm ngay ra lời giải thích cho hợp lý dù hình ảnh nổ tung của gia đình cô, trước đó vài giờ đang bóp chặt trái tim cô.

Lần mò quanh người, không có đến một vết thương, tay cô sờ đúng một vật cồm cộm bên hông, hai chục tờ giấy một trăm Mỹ kim vẫn nằm trong giải lưng quần, kẹp chặt bởi một chiếc kim băng. Trước khi đi, cô đã cẩn thận chia cho mỗi người hai ngàn Mỹ kim để đề phòng trường hợp thất lạc nhau. Món tiền vẫn còn đó, cả gia đình cô tan nát, biến vào hư không. Phải làm sao dấu ngay số tiền, tụi Pathet Lào thể nào cũng lục soát, tiền mất không đáng kể, chỉ sợ chúng phăng ra chuyện vượt sông, biết cô là ai.

Sau khi ăn xong nắm cơm nếp trắng với mắm pà đẹc (mắm cá của người Lào) lót lòng do đám bộ đội cho, cô vội vã, tất tả xin phép chúng để đi tìm người quen. Cô sẽ đến thẳng nhà cô Hai, con dì, con cậu với cô, nơi cô và cả gia đình đã ở nhờ hơn hai tuần lễ và mới rời khỏi trước nửa đêm vừa qua.

Hơn năm năm sống dưới chế độ Pathet Lào, kể từ ngày miền Nam Việt Nam sụp đổ, cả gia đình cô cảm thấy càng lúc, càng khó khăn. Chuyển được một số Mỹ kim vô cùng quan trọng sang Thái Lan, gia đình cô đã từ Vạn Tượng xuôi Nam xuống Sà Vằn để tìm lối vượt biên, vì nơi đây không một ai biết đến gia đình của cô, ngoại trừ gia đình người em gái họ giầu nứt đố đổ vách, cô đã lưu lại ở đấy cho đến đêm qua.

Bước thấp, bước cao, cô hỏi dò đường bằng tiếng Lào với những người bản xứ đường về nhà cô Hai. Trong lòng cô chỉ còn trộn lẫn sự tan nát về hình ảnh tối hôm qua cùng sự sôi sục muốn biết ngay tin tức của cả gia đình.

Cô Lụa cảm thấy thật khó chịu với chính cô, khi cô cố thu nhỏ cái thân xác phì nộn của cô lại để len lén đến trước cửa nhà cô Hai, hầu tránh sự để ý của những người hàng xóm chung quanh. Gõ nhẹ cửa đến lần thứ hai, cô mới nghe trong nhà có tiếng dép lệt sệt, rồi cánh cửa hé mở, một cánh tay kéo tuột cô Lụa vào trong nhà, căn nhà ba từng ngay phố chính của Sà Vằn, mặt hướng về phía sông Cửu Long và xa hơn nữa, bên kia bờ, trên lầu cao của nhà cô Hai, vẫn có thể nhìn thấy rất rõ xe cộ qua lại nơi xứ Thái. Nơi đấy, chỉ cách một dòng sông, cả gia đình cô Lụa đã coi như miền đất hứa từ những ngày trước. Hai chị em họ đứng nhìn nhau, nước mắt vòng quanh.

“Em không ngờ chị thoát được.”

“Trời Phật còn độ trì cho chị. Em nghe được những gì, cứ nói cho chị nghe. Ðừng dấu chị.”

Biết người chị họ là một người cứng rắn, không cứng rắn đã không thể làm chủ thầu buôn thuốc phiện cả hai chục năm qua, cô Hai chẳng dấu điều gì cô biết được, từ chuyện lính Pathet Lào bắn chìm ghe tam bản, vớt được một người đàn ông duy nhất, con rể của cô Lụa, đến việc người ấy bị thương ra sao, cùng việc Pathet Lào kéo ra giữa chợ để mất máu chết thế nào, nhất nhất cô Hai đều kể lại.

Kỳ 6

-Em nghĩ, chị cần phải ăn uống, nghỉ ngơi rồi tối nay nhà em đưa ngay chị về Viên Chắn. Nhà em nghĩ rằng, tụi bán ghe cho chị đã phản, chúng kháo nhau về chuyện gia đình của chị giặt chăn màn ở bờ sông chiều hôm qua. Chứ lý nào tụi nó lại biết và nằm kích như vậy. Hiện giờ, em thật sự lo lắng cho chị và cả ngay cho chúng em...

-Chị hiểu, chị hiểu, chị quý cô chú ở chỗ thành thật như thế này. Không cần phải chở chị về Viên Chắn, cho chị xin một ít Kip (tiền Lào), đủ để cho chị về được đến đấy rồi mọi chuyện chị sẽ từ từ giải quyết. Việc đầu tiên, chị phải rời khỏi nhà em ngay, kẻo em và chú bị liên lụy nếu tụi nó biết.

Chữ giải quyết phát ra từ miệng cô Lụa thật bình thường, nhưng mắt cô không bình thường chút nào, nó mờ đục những căm hờn xen lẫn những tia long lanh đầy quỷ tính.

Chuyến xe đò đầu tiên của ngày hôm sau đưa cô về lại Vientian, dầu sao đám Pathet Lào trên ấy cũng vẫn dễ dạy bảo hơn đám dưới này, cánh tay cô ở đấy cũng dài hơn. Tuy có những quyền lực đen ngay tại Vạn Tượng, nhưng cô và cả gia đình không thể nào rời đất Lào, chúng không chịu để cô đi, chỉ vì cô quá giầu, đường dây chuyển thẩu sẽ mất một mắt xích quan trọng. Chiếc xe đò lắc lư khi băng qua các ổ gà trên quốc lộ 13 dẫn về Vạn Tượng. Ánh nắng quái ác hắt qua khung cửa sổ xe sao chói lạ, nhưng cô cố phải ngủ, chỉ có giấc ngủ mới làm cô quên và cho cô sự tỉnh táo cần thiết khi đến nơi.

Cô Lụa thật sự không cần tiền, hai ngàn Mỹ kim cô đã chia đôi, gấp nhỏ, dấu dưới hai chiếc vú quá khổ và chẩy xệ của cô. Ðôi vú căng mềm, đổ dài xuống bụng, kẹp chặt lấy những tờ giấy Mỹ kim ẩm ướt và giữ chặt chúng trên làn da bụng.

Vừa gần năm mươi, cô Lụa đã phát tướng một cách kỳ lạ, hai vai dầy cộm hẳn ra, nhưng cũng không giữ được đôi ngực vĩ đại tụt hẳn xuống rồi đè dồn lớp mỡ bụng xuống đến cả bụng dưới. Ðôi mông cũng nở rộng ra để giữ lấy quân bằng cho cả thân người. Cô đã xin người em gái họ ít tiền Lào vì có đem tiền ra đổi hoặc mượn, cô Hai sẽ giẫy nẩy lên. Ðám Pathet Lào không thể nào ngờ được cô đã giấu đến hai ngàn Mỹ kim ngay trước mắt chúng.

***

Một vài ngày sau, ở một nơi nào xa, rất xa, bên bờ Ðại Tây Dương của Hoa Kỳ. Cạnh dòng sông Potomac của tiểu bang Virginia, một căn nhà biệt lập hẳn với những đám nhà xây san sát, ẩn mình giữa những rặng cây cổ thụ nơi những cành lá đang vi vu, rì rào với làn gió nhẹ.

Nắng chiều xuyên qua những cành lá tạo nên những tia ánh sáng nhẩy múa trên trang sách làm Phong Sương cảm thấy thật khó chịu. Ngược lại, mùi bùn tanh theo gió từ sông thổi vào mỗi khi nước xuống khiến Phong Sương cảm thấy dễ chịu lạ, trong cái tanh của mùi bùn, ẩn chứa một cái gì thật xa xôi, thật quen thuộc, một cái gì đó lúc nào cũng lởn vởn quanh Phong Sương.

Tuy cách nhau ngàn trùng, nhưng mùi tanh theo gió sông Potomac thổi lên cũng không khác gì mùi bùn tanh của dòng sông Cửu Long, nơi Phong Sương sinh ra và lớn lên tại đấy.

Sau khi di chuyển chiếc ghế dài để tránh những tia sáng tinh nghịch, Phong Sương mất hẳn hứng thú để tiếp tục đọc quyển sách bằng Việt ngữ; Một nhu cầu vô cùng cần thiết, không thể thiếu hằng ngày. Chưa bao giờ đặt chân trên đất Việt, cha người Bắc, mẹ người Huế, Phong Sương được sinh ra cạnh bờ sông Cửu Long, thành phố Vientian của vương quốc Lào, uống nước sông Cửu và xinh đẹp lớn lên.

Tuy chưa một ngày được sống trên quê hương của cha ông nhưng Phong Sương thấy yêu cái quê hương đó kỳ lạ, yêu nhất giọng Bắc của cha nhưng tuyệt nhiên không thể nào cảm nổi tiếng Huế, lý do thật giản dị, suốt một thời thơ ấu cho đến sau khi lập gia đình, không lúc nào mẹ Phong Sương tha không chửi mỗi khi gặp mặt con gái

-Mụ nội mi, tụi ngày ăn xong là lêu lổng.

Bà có nhiều câu chửi khác nhau bằng tiếng Huế, nghe muốn nhức óc.

Ròng rã, năm này qua năm nọ, mối ác cảm với tiếng Huế tăng dần, đến độ Phong Sương khó chịu khi phải giao thiệp với một người nào đó nói tiếng Huế, dù nhiều khi gặp những cô gái Huế, giọng thật thanh tao, nhỏ nhẹ xen lẫn dịu dàng. Tình yêu quê hương kỳ diệu ấy không biết đã len lỏi vào Phong Sương từ lúc nào, chỉ biết tất cả những gì liên quan đến Việt Nam, từ cầm, kỳ, thi, họa, đến những câu chuyện vãn, chuyện tiếu lâm hay chuyện tầm bậy, Phong Sương cũng phải dí mũi vào cho biết.

Nhạc Việt Nam thuộc vanh vách, Phong Sương có thể ngồi thao thao kể tên những nhạc sĩ, ca sĩ của miền Nam Việt Nam thông thạo hơn cả một người sinh ra và lớn lên ở Việt. Ngay cả chuyện Phong Sương hiểu thơ, biết làm thơ và lại làm thơ hay cũng đã làm nhiều người ngạc nhiên. Tóm lại, đôi khi Phong Sương cảm thấy hài lòng về chính mình, cái hài lòng ấy thoáng đến như để vuốt ve cho một cuộc sống gia đình đầy tẻ nhạt, không hạnh phúc sau hơn mười năm lập gia đình; Thoải mái hơn nữa với một một đời sống độc thân như hiện nay, sau khi đã ly dị.

Gấp quyển sách lại, định đi vào nhà, chợt hình ảnh của một người khách đàn bà với sáu ngón tay ở cả hai bàn tay làm Phong Sương xao động dữ dội. Hình ảnh đó luẩn quẩn, theo đuổi Phong Sương kể từ chiều hôm qua, khi người ấy đột ngột tự giới thiệu tên và việc làm, đồng thời đưa lời đề nghị:

-Chị Phong Sương, hai chị em mình biết nhau đã bao nhiêu lâu rồi nhỉ?

Tuy ghét giọng Huế, nhưng chính giọng nói của Phong Sương cũng đá nhẹ những âm hưởng trọ trẹ của tiếng Huế.

-Em nghĩ cũng hơn nửa năm, nhưng chỉ có em là người nói nhiều, cuối cùng em có biết chi về chị đâu. Em chỉ biết tên của chị là Diana thôi.

-Ðúng, Diana Nguyễn, em làm việc cho ông Trung Tá Lone Star, chính ông ta là người giới thiệu chị cho em, ông khen chị là người vẽ kiểu quần áo đẹp nhất D.C.. Em thật hài lòng với tất cả bộ quần áo chị may cho em.

-Ồ thì ra vậy, ông ta là khách hàng của em.

-Ông gởi lời hỏi thăm chị.

-Ồ, thật cám ơn, ông ta còn nghĩ đến em à.

-Không hẳn vậy, chính ông ta gởi em đến đây để đề nghị với chị một chuyện làm ăn.

-Em có biết gì về quân đội đâu?

-Ai nói với chị về chuyện quân đội?

Ngay ngày đầu tiên, Phong Sương đã nhận thấy một vẻ đẹp, một vẻ thanh lịch thật đặc biệt toát ra từ người đàn bà ấy, khi Diana vừa bước vào.

Khá cao cho một phụ nữ Việt Nam, dáng người thon, mảnh mai nhưng không ốm yếu. Mái tóc đen nhánh như một dòng suối, khởi đầu thật cao từ cánh tai bên trái, rồi chảy dài, chảy dài từ từ thấp dần, vòng sau gáy, rồi thật thấp, phủ lấp cả tai phải, chảy xuống vai. Tóc được cắt thật khéo, thoạt nhìn tưởng như cả mái tóc được vén từ tai trái rồi đổ dài qua vai phải; Cuối đuôi tóc được thắt thành một bím thật nhỏ, một chiếc nơ cũng thật nhỏ, theo đà bước, nhẩy múa trên vai. Cả khuôn mặt, nhìn ngang thật thanh thoát với chiếc mũi dọc dừa, da thật trắng làm nổi bật đôi lông mày lá liễu đen nhánh tự nhiên.

Tất cả nơi người đàn bà ấy, Phong Sương không thể chê được một điểm gì, dù biết mình đã đẹp nhưng cũng phải công nhận Diana lấn lướt mình trong mọi khía cạnh; Chỉ có một điều làm Phong Sương cảm thấy thoải mái và quân bằng khi nói chuyện với cô ấy, giọng nói của Diana khàn và đục, đôi khi cô ta cố sửa giọng nhưng chỉ tạo thêm những tiếng eo éo làm nổi da gà.

Vừa hỏi Phong Sương, vừa đưa mắt chăm chú nhìn vào mắt Phong Sương như dò xét. Ðôi mắt cô ta thật đẹp nhưng có những tia lạnh thật tàn nhẫn, khiến Phong Sương nhiều khi không dám nhìn thẳng những khi nói chuyện.

-Chị nói đến Lone Star làm em nghĩ đến chức vụ rồi liên tưởng đến quân đội.

-Ông ta nhờ em hỏi, nếu chị có thể giúp hay làm việc cho ông ta một thời gian. Tùy theo ý chị, đằng nào cũng được.

-Làm việc gì?”

-Chúng em biết chị lớn lên ở Lào, chúng em cần một người thông dịch Anh-Việt-Lào-Pháp, và không ai có thể lưu loát bằng chị, nên chúng em muốn nhờ đến chị.

Kỳ 8



-Cũng tại cái miệng em nói nhiều nên mọi người tưởng vậy. Em đang có công việc làm ăn ở đây, khách cũng đã quen, em nghĩ em không thể nào giúp được, mặc dù em rất quý ông ta.”

-Chị nên nhận lời, cô Lụa của chị đang cần chị ở bên Lào.

-Chị biết cô Lụa của em?

-Chúng em làm việc với cô Lụa.

-Buôn thuốc phiện?

-Gần như vậy, nhưng để tìm hiểu và chận đứng tệ trạng ma túy.

-Chị làm việc cho C.I.A.?

-Chị muốn nghĩ thế cũng vô hại. Cô Lụa của chị vừa bị một tai nạn, cả gia đình bị chết hết, em nghĩ cô có thể rất cần đến sự hỏi thăm hay giúp đỡ của chị.

-Trời ơi, sao vậy? Làm sao lại có thể chết hết cả một gia đình như vậy?

-Cô Lụa và gia đình vượt sông Cửu Long sang Thái bị Pathet Lào bắn...

-Sao chị biết? Cô Lụa hiện ở đâu? Cô có sao không?

Mất hẳn bình tĩnh, Phong Sương hỏi dồn một hơi.

-Cô Lụa hiện đã trở về Vạn Tượng bình yên, nhưng em nghĩ cô rất cần đến chị. Nếu chị nhận lời, Trung Tá Lone Star sẽ lo hết mọi chuyện tại Virginia cho chị, bán cái thương mãi này, để tiền vào trương mục của chị, lợi tức hàng năm của chị cứ coi như một trăm ngàn Mỹ kim, hơn cả lợi tức hiện chị đang kiếm được rất nhiều. Mọi sự di chuyển hoặc ăn ở đã có cơ quan đài thọ, chị chỉ giúp việc thông dịch.

-Mọi chuyện đều quá bất ngờ, chị cho em vài ngày suy nghĩ.

-Chị cứ nghĩ cho kỹ, nhưng cơ quan yêu cầu chị kín đáo, đừng nói cho ai biết, dù người thân. Trường hợp chị từ chối, câu chuyện ngày hôm nay kể như không có.

Câu chuyện chấm dứt tại đấy nhưng hình ảnh người đàn bà tên Diana cùng hai bàn tay sáu ngón ám ảnh Phong Sương dữ dội, cô ta làm việc cho tên Trung Tá Lone Star, có trụ sở ngay cạnh Bạch Ốc, người nổi tiếng với những vụ bán vũ khí lậu cho chính quyền Mỹ C.I.A là cái chắc.

Ðược mẹ sinh ra, nhưng Phong Sương sống bên nhà cô Lụa nhiều hơn sống với mẹ ruột, bố đã phải gởi con sang nhà cô Lụa vì sự dữ dằn của mẹ, cô Lụa chính là mẹ thứ hai của cô vậy, Phong Sương còn người cô nữa ở Sà Vằn, cô Hai, người cô này cũng thương Phong Sương vô cùng, nhiều khi giữ cháu lại nuôi cả năm.

Trước năm 75, gia đình cô Hai làm ăn, buôn bán tại Pặc Sề (Pakse), một tỉnh cực Nam của Lào, gần Căm Bốt, nơi những người Việt Nam nói hoàn toàn tiếng Nam. Cô Hai đã quyết định ở lại Lào như nhiều gia đình người Việt khác, cô có một niềm tin mãnh liệt về chủ thuyết cộng sản, cô cùng nhiều người Việt khác đã thờ ảnh sống của Hồ Chí Minh tại nhà; Nhưng rồi cô và mọi người đều thất vọng khi chủ nghĩa cộng sản thật sự được áp dụng tại Lào, nó hoàn toàn không giống những gì các cán bộ Bắc Việt khi xưa đã tuyên truyền.

Công việc làm ăn, chuyển hàng qua biên giới Căm Bốt không còn được suôn sẻ vì đám Khờ me đỏ, cô Hai dọn về Sà Vằn. Phong Sương lớn lên như cỏ hoang, hết tỉnh này sang tỉnh khác, nay cô này, mai cô kia. Nghịch và ăn hàng nhiều hơn đi học, lớn lên trông coi phụ các cô việc buôn bán, một công việc rất bình thường tại Lào, nhưng lại khác thường nơi những xứ khác: Revendre Opium (bán thuốc phiện).

Tuy sống khác tỉnh, hai cô vẫn có sợi dây liên lạc mật thiết, thứ nhất vì tình máu mủ, sau đó, đường dây thuốc phiện thật chặt chẽ, chặt chẽ đúng nghĩa của nó, chứ không phải mong manh như những làn khói thuốc phiện, vì môi hở răng lạnh. Nghĩ thật thương hai cô, hiện giờ với đời sống độc thân khá đầy đủ, Phong Sương thầm nghĩ, hay nhân tiện thử lấy nghỉ hè dài hạn một chuyến xem sao, vả lại số lương tương đối lớn, lại không phải đóng thuế; Nhỡ có gì trục trặc, vẫn còn số tiền bán tiệm để trong trương mục, chắc chẳng có gì đáng ngại.

Nhưng trước hết, có vài chi tiết cần phải hỏi thêm Diana; Người nữ với mười hai ngón tay cùng đôi cánh tay đầy lông măng đen mướt.



Chương 2



Mùa Ðông 1992.

Lưỡi dao giải phẫu sắc như nước rạch thẳng một đường trên lớp da bụng của một tử thi người da trắng, lưỡi dao kéo dài, kéo dài cho đến hết phần bụng dưới của tử thi rồi dừng lại. Máu từ vết cắt ứa tràn ra trên lớp da xám ngoẹt của tử thi, chảy dài xuống miếng vải nhựa lớn, đọng vũng trên ấy. Lưỡi dao vẫn tiếp tục theo nhịp bàn tay trong chiếc găng tay giải phẫu, thoăn thoắt đưa những vết cắt mỗi lúc một sâu.

Năm phút sau, phần bụng của tử thi đã được mổ banh dưới ánh đèn trắng xanh của một phòng giảo nghiệm tử thi vô thừa nhận của thành phố San Fransisco. Bên ngoài, hai người da trắng, một người ăn mặc rất thanh lịch, mái tóc vàng cắt ngắn, gọn, để lộ ra đôi tai vểnh trông khá buồn cười, nhưng người ấy không lộ vẻ tươi cười chút nào, hắn đang chăm chú dí mũi vào tấm kính cửa phòng để nhìn vào trong, nơi người bác sĩ đang giải phẫu phần bụng của tử thi.

Người còn lại, thiểu não ngồi trên một băng ghế trước cửa phòng. Chiếc quần Jean được cắt bỏ hai ống để nhường chỗ cho những hình ảnh quái dị, đầy mầu sắc và thật khéo léo được xâm đầy hết hai ống chân, chiếc áo T shirt cũng tự nó giới hạn để những hình xâm chạy dài từ cần cổ, chui qua áo, rồi ngoằn ngoèo chạy khắp hai cánh tay, để dừng lại ngay tại hai cườm tay, nơi chiếc còng sắt số tám đang nối liền hai tay lại một. Mái tóc vàng dài được bó túm ra sau, buộc bởi một sợi cao su nhỏ, biến thành một chiếc đuôi ngựa vàng óng. Mái tóc vén ra sau cũng để lộ một đôi tai, nhưng đôi tai này lại hơi khác đôi tai của người đang đứng chăm chú nhìn vào phòng mổ tử thi. Hai con rắn nhỏ bò từ hai vành tai xuống đến đuôi tai, cả hai đều há miệng đớp hai khuyên vàng lủng lẳng nơi trái tai, chừng như muốn nuốt chửng. Bộ ria mép vàng óng thiếu sự vén khéo, cộng thêm những gì trên người hắn đã tạo ngay cho mọi người cái nhìn đầu tiên, hắn là dân lang bạt, kỳ hồ; Một gã giang hồ, dù hắn đang ở trong tình trạng thiểu não với chiếc còng trên hai cườm tay.

-Oh, God. (Trời ơi).

Kỳ 8



Người đàn ông đang chăm chú nhìn vào phòng mổ bỗng buột miệng kêu lên. Bên trong, người y sĩ đang đứng cạnh bồn nước, tay đang giơ và lắc khẽ một vật gì như một chiếc bong bóng xìu hơi vừa được rửa sạch, nước vẫn còn nhỏ giọt trên thềm. Xốc gã giang hồ dậy, người đàn ông vừa kéo, vừa đẩy hắn vào trong phòng mổ. Bằng Anh ngữ:

-Nói đi, cái gì đây? Có phải bạch phiến không?

-Tôi không biết. Chưa từng thấy qua bao giờ.

-Ðược, mày không biết cái này, mày cũng từ chối cái xác chết này không phải là đồng bọn của mày. Mày nhịn đi ỉa được bao nhiêu ngày nữa? Mày có biết cái bọc này là đồ rởm hay không? Không chừng vài phút nữa nó bể ra ở trong ấy, đời mày cũng tiêu luôn.

Quay lại người y sĩ, người đàn ông hỏi tiếp:

-Có phải áo mưa (condom) bị bể không hả bác sĩ?

-Thằng này nó tham quá, nó nuốt đến bốn cái áo mưa, cái này đè cái kia, nên bể một cái, tôi hãy còn để hai cái nữa trong bồn nước kia kìa. Nhiệm vụ tôi đã xong, tôi có thể ký cho anh một biên bản về cái chết của nó. Sử dụng bạch phiến quá độ.

-Tôi tưởng thường thường, tụi nó nhét vào bằng ngã hậu môn chứ, sao bác sĩ lại nói, thằng này nó nuốt?

-Bằng ngã sau, làm sao tụi nó có thể bỏ đến bốn cái áo mưa chứa đầy bạch phiến như vầy vào được. Ðương nhiên nó phải nuốt. Ê, thằng kia, mày tên gì?

-Ron, Ronald Sanford.

Người y sĩ tiếp tục hỏi gã giang hồ:

-Mày có thấy thằng khốn nằm chết ở đây không? Khôn hồn có lỡ dại thì khai ngay, may ra tao còn cứu kịp.

-Tôi không biết nó là ai, tôi chỉ cho nó quá giang xe, ai ngờ nó buôn bạch phiến. Còn cái vụ kia, tôi dại gì dính vô.

Quả tình Ron chẳng dại gì đi nuốt thứ của nợ ấy như cái thằng chết tiệt kia, để đến nỗi chết vẫn còn bị mổ banh cả xác. Hai thằng đã làm trót lọt không biết bao nhiêu chuyến hàng từ hải cảng Seatle về đến San Fransisco.

Trưa hôm qua, Ron bị múm cũng chỉ vì cái thằng chết tiệt, lại bị múm ở một chỗ không thể ngờ nhất; Trạm kiểm soát cây, trái nhập vào tiểu bang California, nằm ngay biên giới của hai tiểu bang Oregon và Cali. Chiếc xe sắp lăn bánh rời trạm kiểm soát sau cái ngoắc tay của viên thanh tra canh nông, hắn lại nằng nằng đòi xuống, xin viên thanh tra cho dùng nhà vệ sinh của trạm vì hắn quá mót tiểu. Tuy thế, cuộc đời của hắn chẳng bao giờ được tiểu thêm một lần nào nữa, kể từ khi hắn bước xuống khỏi xe. Loạng choạng vài bước, hắn đổ gập xuống như một cây chuối bị đốn, toàn thân đổi màu xanh và chỉ vài phút sau hắn đi theo ông bà ông vải hắn luôn, mặc dù viên thanh tra canh nông đã tận tình dùng phương pháp hô hấp nhân tạo để thử cứu hắn.

Tình hình đột nhiên trở nên tệ hại, Ron định rút dù luôn, nhưng không kịp, mọi người hiếu kỳ đã đậu những xe vận tải hạng nặng choán hết cả đường đi để xem, cùng hô hào sự giúp đỡ.

Một người nào đó đã hỏi ngay Ron lúc ấy:

-Bạn anh bị bệnh hả?

Ron ú ớ trả lời, một câu trả lời Ron cho là ngu xuẩn nhất trong cuộc đời giang hồ, quyền biến và mánh khóe của hắn.

-Chắc nó ngộ độc.

Câu trả lời như thừa nhận cái thân xác xám xanh dưới đất kia là bạn hắn, lại còn bị ngộ độc nữa; Từ đó, người ta sẽ đặt ngay câu hỏi, bị độc vì cái gì. Ron bị cảnh sát múm ngay tại chỗ vì bị tình nghi.

Người vừa kéo đầu hắn vào đối diện với cái tử thi bầy nhầy trên bàn mổ là một nhân viên F.B.I., chuyên về ma túy. Từ những lời nói nhẹ nhàng, dụ dỗ cho đến những lời hằn học, gay gắt, dọa nát, tên F.B.I. này cũng không lay chuyển được Ron hé miệng; Dù hắn ta đang rất tin tưởng, chờ đợi lúc Ron đi bài tiết. Hắn nhất định không chịu mở còng cho Ron, ngay cả lúc Ron đòi đi tiểu. Hắn còn nhét cho Ron một phần ăn thật lớn, một cái Burger kép, khoai tây chiên, hành chiên, cùng một ly nước ngọt tổ bố; Xem chừng hắn muốn dùng chỗ thực phẩm mới này để đẩy tất cả những cái cặn bã cùng vài cái áo mưa (condom) chứa bạch phiến, như hắn tin tưởng, trong ruột già của Ron ra ngoài.

Hắn tin tưởng như vậy, nhưng Ron lại tin ngược lại, vì Ron không dại gì đi nuốt những cái của quỷ ấy, vả lại, chắc cũng chẳng bao lâu, hắn phải thả Ron, vì bụng Ron đang bắt đầu nhâm nhẩm đau.

Chắc phải xin lỗi người anh em F.B.I., chuyện người anh em muốn biết về băng Tầu và đường dây nào đã cung cấp bạch phiến tại Seattle, đành phải hẹn với người anh em ở kiếp sau.

Trời thật u ám, từng cơn gió lớn kèm theo cái lạnh của mùa Ðông, tạo nên một cái rét kỳ lạ. Gió đập thình thình vào một cánh cửa lớn của nhà chứa xe khuất sau một căn nhà lớn thuộc vùng ngoại ô thành phố San Fransisco, gió rít lên, lùa qua khe hở, đẩy ập vào trong nhà chứa xe từng luồng hơi lạnh.

Ron ngồi trên mặt đất, cạnh chiếc Van Volkswagen, cố nghiến hai hàm răng lại để chúng thôi lập cập đánh vào nhau, chúng cứ tiếp tục phản lệnh và đập vào nhau mạnh hơn, mạnh đến nỗi chúng bắt cả thân thể Ron cũng phải nhịp theo. Người Ron đang run lên bần bật, không phải vì cái lạnh bên ngoài đưa vào. Ron đang sợ, thật sự khiếp sợ. Mồ hôi trán ra nhiều đến nỗi, chúng làm thành những dòng nhỏ, từ từ lăn xuống hai bên má; Có dòng chảy cả vào mắt, nhưng Ron không dám nhắm, chỉ chớp vội một cái dù mồ hôi có chất muối làm mắt cay xè.

Ron phải mở mắt, vì ngay trước hai con mắt, cách khoảng gang tay, hai mũi dùi nhỏ dính đầy máu khô, chỉ lăm lăm chờ bắn vào hai tròng mắt của Ron. Nếu Ron dám gọi đó là cái máy, nghĩ cũng hơi quá đáng, chỉ một giàn thép nhỏ với hai mũi tên, đúng hơn phải gọi là hai mũi dùi nhọn; Hai mũi dùi nhỏ được nằm trên một vật với cách kiến trúc rất giản dị, nhưng không kém phần tinh vi.

Chúng được nằm trên hai rãnh kim loại hướng thẳng vào hai mắt Ron, phía đuôi mỗi mũi dùi được nối liền với hai sợi dây thun lớn đang được căng cứng và giữ chúng lại bởi một sợi dây nhợ, cuối sợi dây nhợ được buộc chặt vào chiếc cản ở mũi xe. Hai mũi dùi được căng và giữ lại bởi một sợi dây nhợ; Khốn thay sợi dây đó được vắt ngang bởi một cây nhang đang cháy, chỉ còn một lóng tay nữa, đốm lửa sẽ đốt cháy sợi dây, chính cái gì sẽ xẩy ra sau khi sợi dây đứt đã khiến cho Ron run rẩy. Phía trên đầu, hai mảng da đầu đau như đang bị đốt. Thằng khốn nào đó với hai bàn tay hộ pháp, đang nắm chặt hai nắm tóc trên đầu Ron, để giữ cho hai mắt đối diện với hai mũi dùi, chắc hắn phải to lớn lắm; Nguyên hai cái đầu gối của hắn thúc, đè trên hai vai cũng đã khiến Ron muốn nghẹt thở, sụm người.

-Ok. Ok, you guys win. (Ðược rồi, coi như thua mấy người anh em.)


Kỳ 9



Sợi dây chưa đứt nhưng cái căng thẳng trong đầu đã chém một nhát thật ngọt xuống con người giang hồ của Ron, cắt đứt hoàn toàn cái cứng cỏi, phong trần của một gã giang hồ.

Ron đành chịu thua đám này, coi giò cẳng của tụi nó không hung dữ, nhưng thấy rõ là tụi nó dám xuống tay sảng lắm chứ chẳng chơi. Tên F.B.I. đã giữ cứng Ron lại đúng hai ngày, sau khi hắn ép Ron phải bài tiết đến hai lần cùng tháo tung cả chiếc xe của Ron, nhưng không kết quả; Phần Ron cũng không chịu hé môi, nên bắt buộc hắn phải thả. Trên đường lái về nhà, tại ngoại ô thành phố S.F., Ron đã rất cẩn thận nhìn kính chiếu hậu nhiều lần, cũng như bất ngờ làm những cái cua ngược 180 độ để xem mình có bị theo dõi hay không, rõ ràng tụi nó đã bỏ rơi vụ của Ron, tụi nó không theo dõi. F.B.I. đã bỏ, xong không biết tụi nào lại làm mình ngay tại nhà như vầy.

Sau một đêm ngủ thật ngon, Ron làm một ly cà phê cối, dặm thêm vài điếu thuốc, trước khi thò tay vào gỡ nguyên bộ piston của chiếc xe. Tụi F.B.I. đã không ngờ Ron để đầy bạch phiến trong hai ống piston trống. Ðã nhiều lần, Ron để chiếc xe ho xù xụ với sáu piston còn lại chạy từ Seattle về đến S.F. không trở ngại, chuyến này bị cháy cũng tại cái thằng chết tiệt quá tham ăn. Gỡ giàn piston không phải là một trở ngại lớn, vì Ron đã gỡ có đến hai, ba chục lần.

Gói cuối cùng trong bốn gói “trắng” được Ron rút ra khỏi piston, nhẹ nhàng đặt xuống nền xi măng, cạnh ba gói trước. Ron đã bọc từng cái một, thật cẩn thận trong ba lớp giấy nhôm, nhét trong bốn gói cũng bằng nhôm, bên ngoài phủ thêm lớp vaseline để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho phẩm chất của món hàng. Chỉ cần đem chúng vào nhà, làm sạch sẽ phần ngoài, gọi cú điện thoại, có đứa sẽ lại trao tiền và đem chúng đi cấp kỳ.

Với tư thế ngồi hai chân dưới gầm xe, Ron phải ngả người ra sau, chống hai tay xuống đất để rút cả cơ thể ra khỏi gầm xe, nhưng đến cả hơn ba mươi giây, Ron cũng chưa thể cục cựa, rõ ràng có đứa nào đó đã dẵm lên hai bàn tay, dưới sức nặng quỷ quái của bàn chân nào đó, Ron cảm thấy xương hai bàn tay như muốn vỡ vụn.

Chưa kịp quay đầu lại, tóc đã bị nắm, một họng súng đã kê ngay vào miệng. Một giọng ồm ồm cất tiếng hỏi:

-Ai giao bạch phiến cho mày?

-Tụi mày là ai?

Một cái tát như trời giáng làm Ron choáng váng mặt mày. Một người đàn bà y phục toàn đen đã đứng sát người Ron tự lúc nào, chính y thị đã nện cho Ron cái tát. Máu giang hồ trong người nổi lên làm Ron không biết sợ, còn chớt nhả:

-Ê, cái tát vừa rồi hơi khá mạnh tay so với một người đàn bà đẹp như cô em.

Một nắm đấm, hai nắm đấm liên tiếp nện vào mặt Ron. Quả thật người đàn bà ấy quá đẹp, nhưng ra tay hơi mạnh. Cái đẹp không cân xứng chút nào với hai cú đấm. Hai mắt Ron muốn nổ ra muôn ngàn con đom đóm.

-Cho nó mù mắt.

Lúc đó Ron mới biết, tụi nó đến ba đứa, con đàn bà là xếp xòng, nhưng vẫn không hiểu sao tụi nó lại lọt vào nhà mình êm thắm như vậy, vào từ lúc nào. Một thằng vẫn dẵm trên tay Ron, đồng thời hai tay xoắn những lọn tóc trên đầu, rồi ghì cứng. Tên còn lại đem cái lỉnh kỉnh đặt ngay trước mặt Ron. Khi ý thức được cái nhọn của hai mũi dùi, cây nhang cháy dở, cùng sự im lặng tỉnh queo của chúng, Ron biết ngay tụi này cũng thứ ngang dọc, dám nói, dám làm. Trong khi cây nhang đang cháy, đầu óc Ron làm việc không ngừng, những mong tìm kế thoát. Cuối cùng Ron đành thua cuộc, tụi này đúng dân nhà nghề, khó qua nổi tụi nó.

-Mày có sẵn sàng khai hết không?

-Anh em muốn biết gì cứ việc hỏi.

-Mày tên Ronald Sanford?

-Ờ, cha mẹ tao đặt như vậy.

-Mày đi lính hai năm ở Việt Nam?

-Ðúng.

-Mày đào ngũ và trốn ở Băng Cốc thêm hai năm nữa, có đúng không?

Sau khi đầu được thả ra bởi đôi tay hộ pháp, Ron nhìn quanh và cảm thấy đỡ sợ. Ron cảm thấy thoải mái hơn khi được nhìn thẳng vào chúng để nói chuyện, tuy chúng nó có đến hai thằng Mỹ trắng to lớn, đeo hai cây tự động bên sườn, cùng một con đàn bà Á đông với đôi mắt thật sắc, đẹp và lạnh. Hiện hai thằng cùng con đàn bà với chiếc váy đen ôm sát đôi chân, vớ đen, đôi giầy cũng đen, hoàn toàn với mầu đen hắc ám, đang làm Ron sợ qua những chi tiết liên quan về quá khứ của Ron.

-Băng nào cung cấp cái trắng cho mày bán?

-Tụi Rồng Vàng.

-Băng Tầu?

-Ðúng, băng Tầu.

-Mày làm ăn coi bộ khấm khá hả? Chuyến này không chừng mày làm đến cả ký lô bạch phiến lận.

-Tụi mày cứ lấy.

Ron đổ lì, mày tao chi tớ luôn với chúng.

-Mày dẫn tụi tao đến gặp tụi nó.

-Tụi nó sẽ thịt tao.

-Mày khỏi lo chuyện đó.

-Nguyên dọc bờ biển Tây Mỹ, có tụi nào chơi trên chân tụi Tầu đâu. Tụi mày hơn cơ nó hả?

-Tụi tao không hơn cơ nhưng đủ sức chơi ngang ngửa, mày không dám dẫn tụi tao đi, vì mày hãy còn thương cho cái túi da bọc thịt hôi hám của mày, vì bây giờ mày đang có tiền, mày vừa thoát khỏi cái quá khứ ăn mày, ăn xin của mày nên mày sợ hả? Còn con chó của mày đâu? Chắc mày đã để nó chết bờ, chết bụi rồi chứ gì?

Thằng con dồn Ron nguyên một hơi làm Ron thật sự ngộp, không iểu tụi này là ai, sao lại biết rõ quá khứ của mình như vậy. ại còn hỏi con chó của mình đâu.

Sau hai năm lẩn trốn quanh quẩn tại Băng Cốc, Ron đã tự động ra rình diện tòa đại sứ Mỹ tại đấy, để được đưa về Mỹ lãnh nguyên ột năm tù vì tội đào ngũ.

Cần sa tràn ngập Việt Nam vào những thập niên 70 đã làm sa lầy Ron cùng không biết bao nhiêu bạn hữu. Lương tháng không đủ, vì càng lúc, cần sa càng không phải là một chất liệu cho Ron đã cơn phê, nhẩy qua cái trắng, Ron cháy túi.

No comments:

Post a Comment